Beruflich Dokumente
Kultur Dokumente
Hoạt động kinh tế biến động từ năm này qua năm khác. Nhìn chung, sản lượng hàng hoá và dịch vụ
liên tục tăng lên theo thời gian. Do có sự gia tăng của lực lượng lao động, tư bản và tiến bộ công
nghệ, nền kinh tế ngày càng có thể sản xuất nhiều hơn. Sự tăng trưởng này cho phép mọi người
hưởng thụ mức sống cao hơn. Trung bình trong 50 năm qua, sản lượng của nền kinh tế Mỹ tính bằng
GDP thực tế tăng trưởng khoảng 3 phần trăm mỗi năm.
Tuy nhiên, trong một số năm, sự tăng trưởng bình thường này đã không xảy ra. Các doanh
nghiệp không bán được hết hàng hoá và dịch vụ và quyết định cắt giảm mức sản xuất. Nhiều
công nhân bị sa thải, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và nhiều nhà máy bị bỏ không. Khi nền kinh tế
sản xuất hàng hoá và dịch vụ ít hơn, GDP thực tế và các đại lượng phản ánh thu nhập khác giảm
đi. Những thời kỳ thu nhập giảm trong khi thất nghiệp tăng cao được gọi là suy thoái nếu tình
hình không nghiêm trọng, và được gọi là khủng hoảng nếu vấn đề thực sự nghiêm trọng.
Điều gì đã gây ra biến động của hoạt động kinh tế trong ngắn hạn? Các chính sách công cộng
có thể làm gì để ngăn chặn các thời kỳ thu nhập giảm và thất nghiệp tăng cao? Khi kinh tế
suy giảm hoặc suy thoái xảy ra, các nhà hoạch định chính sách có thể làm gì để giảm bớt độ
dài và mức độ trầm trọng của chúng? Đây là những câu hỏi mà chúng ta xem xét trong
chương này và hai chương tiếp theo.
Các biến số mà chúng ta nghiên cứu trong các chương tiếp theo phần lớn là các biến số mà
chúng ta đã biết. Đó là GDP, thất nghiệp, lãi suất, tỷ giá hối đoái và mức giá. Các công cụ
chính sách của chính phủ như chi tiêu, thuế và cung ứng tiền tệ cũng đã quen thuộc với
chúng ta. Điểm khác biệt ở trong các chương tiếp theo là khoảng thời gian phân tích. Trọng
tâm của bảy chương vừa rồi là nền kinh tế trong dài hạn. Giờ đây, chúng ta quan tâm đến
những biến động trong ngắn hạn xung quanh xu hướng dài hạn của nền kinh tế.
Mặc dù còn có sự tranh luận giữa các nhà kinh tế về phương pháp phân tích biến động
kinh tế trong ngắn hạn, nhưng hầu hết các nhà kinh tế đều sử dụng mô hình tổng cầu và
tổng cung. Học cách vận dụng mô hình này để phân tích ảnh hưởng của các chính sách là
nhiệm vụ chủ yếu sắp tới của chúng ta. Trong chương này, chúng ta bàn đến hai mảng
then chốt của mô hình là tổng cầu và tổng cung. Sau khi có cái nhìn tổng quan về mô
hình trong chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn trong hai chương tiếp theo.
Những biến động trong ngắn hạn của các hoạt động kinh tế diễn ra ở tất cả các nước và mọi thời
đại trong suốt chiều dài lịch sử. Để có điểm khởi đầu cho việc tìm hiểu những biến động từ năm
này sang năm khác, chúng ta hãy trình bày một vài tính chất quan trọng nhất của chúng.
Đặc điểm 1: Các biến động kinh tế diễn ra bất thường và không thể dự báo
Biến động của nền kinh tế thường được gọi là chu kỳ kinh doanh. Như thuật ngữ này cho
thấy, biến động kinh tế gắn liền với những thay đổi trong điều kiện kinh doanh. Khi GDP
tăng trưởng nhanh, hoạt động kinh doanh phát đạt. Các doanh nghiệp có nhiều khách
hàng và lợi nhuận ngày càng tăng. Ngược lại, khi GDP thực tế giảm, các doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn. Trong thời kỳ hoạt động kinh tế suy giảm, hầu hết các doanh nghiệp
$1,100
1,000
900
800
700
600 Chi tiêu cho đầu tư
500
400
3001965 1970 1975 1980 1985 1990 1995
Việc mô tả xu thế định kỳ mà nền kinh tế trải qua khi nó biến động theo thời gian là một
công việc đơn giản. Song việc lý giải nguyên nhân gây ra những biến động đó khó khăn hơn
nhiều. Tuy nhiên, nếu so với các chủ đề mà chúng ta đã nghiên cứu trong các chương trước,
lý thuyết về biến động kinh tế vẫn còn tranh luận nhiều. Trong chương này và hai chương
tiếp theo, chúng ta sẽ phát triển mô hình mà phần lớn các nhà kinh tế sử dụng để lý giải các
biến động kinh tế ngắn hạn.
Ngắn hạn và dài hạn khác nhau như thế nào
Trong các chương trước, chúng ta đã xây dựng những mô hình xác định các biến số kinh tế vĩ
Mức giá
cân bằng
Tổng cầu
Đường tổng cầu cho biết tổng lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế tại mức giá
bất kỳ cho trước. Hình 3 cho thấy đường tổng cầu dốc xuống. Điều này có nghĩa là nếu
những cái khác không thay đổi, sự giảm sút mức giá chung của nền kinh tế, ví dụ từ P1 xuống
P2, có xu hướng làm cho lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng, chẳng hạn từ Y1 lên Y2 .
Tại sao đường tổng cầu dốc xuống
Tại sao sự giảm sút mức giá chung lại làm tăng lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ? Để trả lời
câu hỏi này, chúng ta hãy nhớ lại rằng GDP thực tế (Y) bằng tổng của tiêu dùng (C), đầu tư
(I), chi tiêu chính phủ (G) và xuất khẩu ròng (NX):
Y = C + I + G + NX
Các thành tố này đều đóng góp vào tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ. Bây giờ, chúng ta giả
định rằng, chi tiêu của chính phủ được cố định bởi chính sách. Ba thành tố còn lại - tiêu
dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng - phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, cụ thể là mức giá
chung. Bởi vậy, để hiểu tại sao đường tổng cầu dốc xuống, chúng ta phải xem mức giá ảnh
hưởng đến lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ cho tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng như thế
nào.
P1
1. Sự giảm sút
trong mức giá P2
Tổng cầu
0 Y1 Y2
Sản lượng
2. ...làm tăng lượng cầu về hàng
hoá và dịch vụ
Hình 3. Đường tổng cầu. Sự giảm sút mức giá từ P1 xuống P2 làm tăng lượng cầu về hàng
hoá và dịch vụ từ Y1 lên Y2. Mối quan hệ nghịch này do ba nguyên nhân gây ra. Khi mức giá
giảm, của cải thực tế tăng, lãi suất giảm và tỷ giá hối đoái giảm. Các hiệu ứng này kích thích
tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu ròng. Tăng chi tiêu cho các thành tố của sản lượng có nghĩa
là lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn hơn.
Mức giá và tiêu dùng: Hiệu ứng của cải. Hãy nhìn vào khoản tiền trong ví hay tài khoản
ngân hàng của bạn. Giá trị danh nghĩa của những khoản tiền này cố định, nhưng giá trị thực
tế của nó thì không. Khi mức giá giảm, những đồng tiền này có giá hơn vì chúng có thể mua
được nhiều hàng hoá hơn. Như vậy, sự giảm sút mức giá làm cho người tiêu dùng cảm thấy
mình có nhiều của cải hơn và điều này khuyến khích họ mua nhiều hơn. Chi cho tiêu dùng
tăng lên có nghĩa là lượng cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn hơn.
Mức giá và đầu tư: Hiệu ứng lãi suất. Như đã thảo luận trong chương 28, mức giá là một
trong những yếu tố quyết định của lượng cầu về tiền. Với mức giá thấp hơn, mọi người cần ít
tiền hơn cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Như vậy khi mức giá giảm, các hộ gia đình sẽ
tìm cách giảm lượng tiền nắm giữ bằng cách cho vay một phần số tiền hiện có. Ví dụ, một hộ
gia đình nào đó có thể dùng số tiền dôi ra của mình để mua trái phiếu có lãi. Hoặc họ có thể
gửi vào tài khoản tiết kiệm và ngân hàng lại dùng khoản tiền này để cho vay. Trong cả hai
trường hợp, do các hộ gia đình chuyển một phần số tiền nắm giữ thành các tài sản sinh lãi, họ
làm cho lãi suất giảm xuống. Lãi suất giảm đến lượt nó lại kích thích các doanh nghiệp đầu
tư vào nhà xưởng và thiết bị mới hoặc các hộ gia đình mua nhà ở mới. Do vậy, mức giá thấp
hơn làm giảm lãi suất, khuyến khích chi tiêu mua hàng đầu tư và qua đó làm tăng lượng cầu
về hàng hóa và dịch vụ.
Mức giá và xuất khẩu ròng: Hiệu ứng tỷ giá hối đoái. Như chúng ta vừa thảo luận, mức
giá thấp hơn ở Mỹ làm cho lãi suất ở Mỹ thấp hơn. Điều này làm cho một số nhà đầu tư
muốn đầu tư nhiều hơn ra nước ngoài. Ví dụ, khi lãi suất trái phiếu chính phủ giảm, một quỹ
hỗ tương bán trái phiếu chính phủ Mỹ để mua trái phiếu chính phủ Đức. Khi quỹ hỗ tương
chuyển tài sản ra nước ngoài, nó làm tăng cung về đô la trên thị trường ngoại tệ. Sự tăng
cung về đô la làm cho đồng đô la giảm giá so với các đồng tiền khác. Vì một đô la giờ đây
mua được ít đơn vị ngoại tệ hơn, hàng hoá nước ngoài trở nên đắt hơn hàng hoá và dịch vụ
Mỹ. Sự thay đổi này trong tỷ giá hối đoái thực tế (giá tương đối của hàng nội so với hàng
ngoại) làm tăng xuất khẩu và làm giảm nhập khẩu. Xuất khẩu ròng (bằng xuất khẩu trừ nhập
khẩu) sẽ tăng lên. Như vậy, khi sự giảm sút mức giá làm cho lãi suất giảm, tỷ giá hối đoái
Đường tổng cung cho biết tổng lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp sản xuất ra
và muốn bán tại mỗi mức giá cho trước bất kỳ. Không giống như đường tổng cầu lúc nào
cũng dốc xuống, đường tổng cung biểu thị một mối quan hệ về cơ bản phụ thuộc vào khoảng
thời gian nghiên cứu. Trong dài hạn, đường tổng cung thẳng đứng; còn trong ngắn hạn,
đường tổng cung dốc lên. Để hiểu những biến động kinh tế ngắn hạn và sự chệch khỏi vị trí
dài hạn của nền kinh tế trong ngắn hạn, chúng ta cần nghiên cứu cả đường tổng cung dài hạn
và đường tổng cung ngắn hạn.
Tại sao đường tổng cung thẳng đứng trong dài hạn
Nhân tố nào quyết định lượng cung về hàng hoá và dịch vụ trong dài hạn? Chúng ta đã ngầm
trả lời câu hỏi này trong phần đầu của cuốn sách khi phân tích quá trình tăng trưởng kinh tế.
Trong dài hạn, sản lượng hàng hoá và dịch vụ của một nền kinh tế (GDP thực tế của nó) phụ
thuộc vào nguồn cung về lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ dùng để
chuyển các yếu tố sản suất này thành các hàng hoá và dịch vụ. Do mức giá không ảnh hưởng
đến các yếu tố quyết định GDP thực tế trong dài hạn, nên đường tổng cung dài hạn thẳng
đứng như trong hình 4. Nói cách khác, trong dài hạn nguồn lao động, tư bản, tài nguyên thiên
Mức giá
Tổng cung
dài hạn
P1
0
Mức sản lượng tự Sản lượng
nhiên
Hình 4. Đường tổng cung dài hạn. Trong dài hạn, lượng cung về sản phẩm phụ thuộc vào
lượng lao động, tư bản và tài nguyên thiên nhiên của nền kinh tế và công nghệ dùng để
chuyển các đầu vào này thành sản lượng. Lượng cung ứng không phụ thuộc vào mức mức
giá chung. Kết quả là, đường tổng cung dài hạn thẳng đứng tại mức sản lượng tự nhiên.
Về thực chất, đường tổng cung thẳng đứng chỉ là một cách áp dụng sự phân đôi cổ điển và
tính trung lập của tiền. Như chúng ta đã thảo luận, lý thuyết kinh tế vĩ mô cổ điển dựa trên
giả định cho rằng các biến thực tế không phụ thuộc vào các biến danh nghĩa. Đường tổng
cung thẳng đứng phù hợp với tư tưởng này, vì nó hàm ý rằng sản lượng (biến thực tế) không
phụ thuộc vào mức giá (biến danh nghĩa). Như đã lưu ý trước đây, hầu hết các nhà kinh tế tin
rằng nguyên lý này đúng khi nghiên cứu nền kinh tế trong thời kỳ dài nhiều năm và không
còn đúng nếu nghiên cứu sự thay đổi từ năm này qua năm khác. Do vậy, đường tổng cung chỉ
thẳng đứng trong dài hạn.
Người ta có thể băn khoăn rằng tại sao đường cung về các mặt hàng cụ thể có thể dốc lên nếu
đường tổng cung dài hạn thẳng đứng. Lý do là cung về hàng hoá và dịch vụ phụ thuộc vào
giá tương đối - tức giá của hàng hoá và dịch vụ đó so với các giá khác trong nền kinh tế. Ví
dụ khi giá kem tăng lên, các nhà sản xuất kem sẽ tăng sản lượng và lấy đi lao động, sữa, sô
cô la và các đầu vào khác từ sản xuất các sản phẩm khác, chẳng hạn sữa chua. Trái lại, tổng
sản lượng của cả nền kinh tế bị giới hạn bởi lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và công
nghệ. Do đó, nếu giá cả của tất cả hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế cùng tăng lên thì
tổng lượng cung về hàng hóa và dịch vụ sẽ không thay đổi .
Tại sao đường tổng cung dài hạn có thể dịch chuyển
Vị trí của đường tổng cung dài hạn cho biết lượng hàng hoá và dịch vụ được lý thuyết
kinh tế vĩ mô cổ điển dự báo. Mức sản lượng này thường được gọi là sản lượng tiềm năng
hay sản lượng toàn dụng. Nói chính xác hơn, ta gọi đó là mức sản lượng tự nhiên vì nó
cho biết nền kinh tế sản xuất ra bao nhiêu khi thất nghiệp ở mức tự nhiên hay bình
thường. Mức sản lượng tự nhiên là mức sản lượng mà nền kinh tế hướng tới trong dài
hạn.
P1980
AD2000
AD1980
AD1990
0
Y1980 Y1990 Y2000 Sản lượng
3 ...dẫn đến sự táng trưởng của sản lượng
Tổng cung
ngắn hạn
P1
0 Y2 Y1 Sản lượng
Hình 6. Đường tổng cung ngắn hạn. Trong ngắn hạn một sự giảm giá từ P1 xuống P2 làm
giảm tổng cung từ Y1 xuống Y2. Mối quan hệ thuận này có thể do nhận thức sai lầm, tiền
lương cứng nhắc, hay giá cả cứng nhắc. Theo thời gian, nhận thức, tiền lương và giá cả điều
chỉnh, do đó mối quan hệ thuận này chỉ có tính tạm thời.
Lý thuyết nhận thức sai lầm. Một cách tiếp cận đối với đường tổng cung ngắn hạn là lý
thuyết nhận thức sai lầm. Theo lý thuyết này, sự thay đổi trong mức giá chung có thể tạm
thời làm cho các nhà cung cấp nhận thức sai lầm về tình hình diễn ra trên các thị trường cá
biệt, mà ở đó họ bán sản phẩm của mình. Do nhận thức sai lầm trong ngắn hạn, các nhà cung
Tại sao đường tổng cung ngắn hạn lại dốc lên
1. Lý thuyết nhận thức sai lầm: Mức giá thấp ngoài dự kiến làm cho một số nhà cung cấp
nghĩ rằng giá tương đối của họ giảm và do vậy họ cắt giảm sản lượng.
2. Lý thuyết tiền lương cứng nhắc: Mức giá thấp ngoài dự kiến làm cho tiền lương thực tế
tăng lên, làm cho các doanh nghiệp thuê ít lao động hơn và sản xuất ra một lượng hàng
hoá và dịch vụ nhỏ hơn.
3. Lý thuyết giá cả cứng nhắc: Mức giá thấp ngoài dự kiến làm cho một số doanh nghiệp có
giá cả cao hơn giá mong muốn, điều này làm giảm doanh số bán ra của họ khiến họ cắt
giảm sản xuất.
Tại sao đường tổng cung ngắn hạn có thể dịch chuyển
1. Những thay đổi phát sinh từ lao động: Sự gia tăng của lượng lao động hiện có (có lẽ là do tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên giảm) làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự giảm sút
lượng lao động hiện có (có lẽ là do tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên tăng) làm dịch chuyển đường
tổng cung sang trái.
2. Những thay đổi phát sinh từ tư bản: Sự gia tăng khối lượng tư bản hiện vật hoặc vốn nhân
lực làm dịch chuyển đường tổng cung sang bên phải. Sự giảm sút khối lượng tư bản hiện
vật hoặc vốn nhân lực làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.
3. Những thay đổi phát sinh từ tài nguyên thiên nhiên: Việc khai phá thêm nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên mới làm dịch chuyển đường tổng cung sang phải. Sự suy giảm nguồn
tài nguyên thiên nhiên làm dịch chuyển đường tổng cung sang trái.
Bây giờ, sau khi đã giới thiệu mô hình tổng cầu và tổng cung, chúng ta đã có những công cụ
cơ bản để phân tích các biến động trong hoạt động kinh tế. Trong chương tiếp theo, chúng ta
sẽ học cách sử dụng các công cụ này kỹ hơn. Nhưng ngay lúc này đây, chúng ta có thể vận
dụng những gì đã học về tổng cầu và tổng cung để xem xét hai nguyên nhân cơ bản gây ra
các biến động kinh tế ngắn hạn.
Mức Tổng
giá cung dài Tổng cung
hạn ngắn hạn
Giá cân A
bằng
Tổng cầu
0
Mức sản lượng Sản lượng
tự nhiên
Hình 7. Trạng thái cân bằng dài hạn. Điểm cân bằng dài hạn của nền kinh tế nằm ở giao
điểm giữa đường tổng cầu và đường tổng cung dài hạn (điểm A). Khi nền kinh tế đạt tới điểm
cân bằng dài hạn thì nhận thức, tiền lương và giá cả sẽ điều chỉnh để đường tổng cung ngắn
hạn cũng đi qua điểm này.
Hình 7 biểu thị nền kinh tế đang nằm trong trạng thái cân bằng dài hạn. Sản lượng và mức
giá cân bằng được xác định tại giao điểm của đường tổng cầu và đường tổng cung dài hạn,
như điểm A trong hình vẽ. Tại đây, sản lượng ở mức tự nhiên. Đường tổng cung ngắn hạn
cũng đi qua điểm này cho thấy rằng tiền lương và giá cả đã được điều chỉnh hoàn toàn để đạt
tới điểm cân bằng dài hạn. Nghĩa là khi nền kinh tế ở mức cân bằng dài hạn, nhận thức, tiền
lương và giá cả đã phải điều chỉnh để giao điểm giữa đường tổng cầu và đường tổng cung
ngắn hạn trùng với giao điểm của đường tổng cầu và tổng cung dài hạn.
Mức
giá Tổng cung ngắn hạn, AS1
Tổng cung
dài hạn
AS2
3. ...nhưng theo thời
gian, đường tổng cung
ngắn hạn dịch chuyển...
A
P1
B
P2
1. Sự giảm xuống của tổng cầu
P3 C
0 Y2 Y1
4. ...và sản lượng trở về mức tự nhiên Sản lượng
Hình 8. Sự suy giảm tổng cầu. Sự suy giảm tổng cầu, có thể do làn sóng bi quan trong nền
kinh tế gây ra, được biểu diễn bằng sự dịch chuyển sang trái của đường tổng cầu từ AD1 đến
AD2. Nền kinh tế chuyển từ điểm A đến điểm B. Sản lượng giảm từ Y1 xuống Y2 trong khi mức
giá giảm từ P1 xuống P2. Theo thời gian, nhận thức, tiền lương và giá cả điều chỉnh, đường
tổng cung ngắn hạn dịch chuyển từ AS1 đến AS2, và nền kinh tế đạt tới điểm C, nơi đường
tổng cầu mới cắt đường tổng cung dài hạn. Mức giá giảm xuống P3, và sản lượng quay về
mức tự nhiên Y1.
nền kinh tế di chuyển dọc từ A đến B theo đường tổng cung ngắn hạn ban đầu AS1 . Khi nền
kinh tế chuyển từ A dến B, sản lượng giảm từ Y1 xuống Y2 và mức giá giảm từ P1 xuống P2.
Sự suy giảm sản lượng cho thấy nền kinh tế rơi vào suy thoái. Mặc dù không được biểu thị
trong hình vẽ, các doanh nghiệp phản ứng lại sự giảm sút doanh số bán ra và sản xuất bằng
cách cắt giảm việc làm. Do vậy, sự bi quan khiến cho đường tổng cầu dịch chuyển, trong một
chừng mực nào đó lại chính là do tự bản thân chúng ta: nghĩa là sự bi quan về tương lai làm
cho thu nhập giảm và thất nghiệp tăng.
0 Y2 Y1
Sản lượng
2. ...làm sản lượng giảm...
NGUYÊN LÝ KINH TẾ HỌC
Chương 14 – Tổng cầu và tổng cung 19
Hình 10. Sự dịch chuyển bất lợi trong tổng cung. Khi biến cố nào đó làm tăng chi phí của
các doanh nghiệp, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển từ AS1 đến AS2. Nền kinh tế
chuyển từ điểm A đến điểm B. Kết quả là hiện tượng lạm phát kèm suy thoái: sản lượng giảm
từ Y1 xuống Y2 trong khi mức giá tăng từ P1 lên P2.
Ảnh hưởng kinh tế vĩ mô của sự gia tăng chi phí sản xuất là gì? Ở mỗi mức giá bất kỳ cho
trước, các doanh nghiệp muốn cung ứng ra ít hàng hoá và dịch vụ hơn. Như trong hình 10
cho thấy, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển sang trái từ AS1 đến AS2. (Tuỳ theo biến cố,
đường tổng cung dài hạn cũng có thể dịch chuyển. Nhưng để giữ cho sự việc đơn giản, chúng
ta giả định nó không dịch chuyển.)
Trong hình này, chúng ta có thể theo dõi những ảnh hưởng của việc đường tổng cung
dịch chuyển sang trái. Trong ngắn hạn, nền kinh tế di chuyển dọc theo đường tổng cầu từ
điểm A đến điểm B. Sản lượng của nền kinh tế giảm từ Y1 xuống Y2 trong khi mức giá
tăng từ P1 lên P2. Do nền kinh tế vừa rơi vào suy thoái (sản lượng giảm) và vừa trải qua
lạm phát (mức giá tăng) nên hiện tượng này được gọi là suy thoái đi kèm lạm phát.
1. Khi tổng cung ngắn hạn giảm...
Mức giá
P3
C
P2 2. ... các nhà họach định chính
A sách có thể xử lý sự dịch chuyển
P1 này bằng kích thích tổng cầu...
Hình 11. Thích ứng với sự dịch chuyển bất lợi của đường tổng cung. Trước sự dịch
chuyển bất lợi của đường tổng cung từ AS1 đến AS2, các nhà hoạch định chính sách - những
người có khả năng ảnh hưởng đến tổng cầu - dịch chuyển đường tổng cầu từ AD1 đến AD2.
Nền kinh tế sẽ chuyển từ điểm A tới C. Chính sách này có thể ngăn chặn không cho sự dịch
chuyển trong cung làm giảm sản lượng trong ngắn hạn, nhưng mức giá sẽ tăng từ P1 lên P2
và duy trì ở mức đó.
Các nhà hoạch định chính sách nên làm gì khi phải đối mặt với tình trạng suy thoái kèm lạm
phát? Như chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn trong phần sau của cuốn sách này, không có những
lựa chọn dễ dàng. Một khả năng là không làm gì cả. Trong trường hợp này, sản lượng hàng
hoá và dịch vụ tiếp tục ở mức thấp Y2 trong một thời gian. Nhưng cuối cùng, tình trạng suy
thoái sẽ tự hiệu chỉnh khi nhận thức, tiền lương và giá cả điều chỉnh đối với chi phí sản xuất
cao hơn. Ví dụ, thời kỳ có sản lượng thấp và thất nghiệp cao gây áp lực làm cho tiền lương
công nhân giảm. Đến lượt nó, tiền lương thấp hơn làm tăng sản lượng. Theo thời gian khi mà
đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển trở lại AS1, mức giá giảm và sản lượng tiến tới mức
Chương này đã đạt được hai mục tiêu chính. Thứ nhất, chúng ta đã thảo luận một số đặc
điểm quan trọng về các biến động kinh tế ngắn hạn. Thứ hai, chúng ta đã giới thiệu mô hình
cơ bản để giải thích những biến động kinh tế, gọi là mô hình tổng cầu và tổng cung. Trong
hai chương tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét từng mảng của mô hình này chi tiết hơn để hiểu rõ
hơn các yếu tố nào gây ra những biến động trong nền kinh tế và các nhà hoạch định chính
sách đối phó với chúng ra sao.
Bây giờ chúng ta đã có những hiểu biết sơ bộ về mô hình này và cũng nên nhìn lại lịch sử của
nó. Mô hình về các biến động kinh tế ngắn hạn hình thành như thế nào? Câu trả lời là, về cơ
bản nó là sản phẩm phụ của cuộc Đại suy khủng hoảng kinh tế trong những năm 1930. Các
nhà kinh tế và hoạch định chính sách vào thời gian này rất bối rối, không hiểu được nguyên
nhân của thảm họa này và không biết đối phó với nó như thế nào.
Năm 1936, nhà kinh tế John Maynard Keynes xuất bản cuốn sách có tiêu đề Lý thuyết tổng
quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ để lý giải những biến động kinh tế trong ngắn hạn nói
chung và cuộc Đại khủng hoảng kinh tế nói riêng. Thông điệp cơ bản của Keynes là suy thoái
và đại khủng hoảng có thể xảy ra vì tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ thấp. Từ lâu Keynes đã
phê phán lý thuyết kinh tế cổ điển - trình bày từ chương 24 đến 30 - vì nó chỉ giải thích được
những ảnh hưởng dài hạn của chính sách. Một vài năm trước khi đưa ra cuốn Lý thuyết tổng
quát, Keynes đã viết về kinh tế học cổ điển như sau:
Dài hạn là sự định hướng sai lầm cho các vấn đề hiện tại. Trong dài hạn, tất cả chúng ta đều
sẽ chết. Các nhà kinh tế tự đặt cho mình một nhiệm vụ quá dễ dãi, quá vô tích sự nếu như
trong mùa giông bão, họ chỉ có thể nói với chúng ta khi nào bão táp đã qua thì biển sẽ lặng.
Thông điệp của Keynes nhằm vào cả các nhà hoạch định chính sách và các nhà kinh tế. Khi
nền kinh tế thế giới phải chịu mức thất nghiệp cao, Keynes ủng hộ các chính sách kích thích
tổng cầu, trong đó có chi tiêu chính phủ cho các chương trình việc làm công cộng. Trong
chương tiếp theo, chúng ta sẽ kiểm tra xem các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng
chính sách tiền tệ và tài khoá như thế nào để tác động vào tổng cầu. Các phân tích trong
chương sau và cũng như chương này đều là di sản của John Maynard Keynes.
Tất cả các xã hội đều trải qua những biến động kinh tế ngắn hạn xung quanh xu thế phát
triển dài hạn. Những biến động này thất thường và phần lớn không dự báo được. Khi suy
thoái diễn ra, GDP thực tế và các đại lượng khác phản ánh thu nhập, chi tiêu, và sản xuất
giảm và thất nghiệp tăng.
Các nhà kinh tế phân tích biến động kinh tế ngắn hạn bằng cách sử dụng mô hình tổng cầu
và tổng cung. Theo mô hình này, sản lượng hàng hoá và dịch vụ, cũng như mức giá chung
điều chỉnh để cân bằng tổng cầu và tổng cung.
Đường tổng cầu dốc xuống vì ba lý do. Thứ nhất, mức giá thấp hơn làm tăng giá trị thực
tế của số tiền mà các hộ gia đình nắm giữ và điều này kích thích chi cho tiêu dùng. Thứ
hai, mức giá thấp hơn làm giảm lượng tiền mà các hộ muốn nắm giữ và do các hộ gia
đình tìm cách đổi từ tiền mặt sang các tài sản đem lại lãi suất, lãi suất sẽ giảm và điều
này khuyến khích chi cho đầu tư. Thứ ba, vì mức giá thấp hơn làm giảm lãi suất, đồng
đô la mất giá trên thị trường ngoại tệ, điều này kích thích xuất khẩu ròng.
Bất cứ biến cố hay chính sách nào làm tăng tiêu dùng, đầu tư, mua sắm của chính phủ, hay
xuất khẩu ròng tại một mức giá bất kỳ cho trước, đều làm tăng tổng cầu. Bất cứ biến cố
hay chính sách nào làm giảm tiêu dùng, đầu tư, mua sắm của chính phủ, hay xuất khẩu
ròng tại một mức giá cho trước, đều làm giảm tổng cầu.
Đường tổng cung dài hạn nằm thẳng đứng. Trong dài hạn, lượng hàng hoá và dịch vụ
cung ứng ra phụ thuộc vào lao động, tư bản, tài nguyên thiên nhiên và công nghệ của nền
kinh tế, chứ không phụ thuộc vào mức giá chung.
Có ba lý thuyết được đưa ra để lý giải tại sao đường tổng cung ngắn hạn lại dốc lên.
Theo lý thuyết nhận thức sai lầm, sự suy giảm ngoài dự kiến của mức giá làm cho các
nhà cung cấp tin một cách lầm lẫn rằng giá tương đối của họ đã giảm, điều khiến họ cắt
giảm sản lượng. Theo lý thuyết tiền lương cứng nhắc, sự giảm sút mức giá ngoài dự kiến
tạm thời làm tăng tiền lương thực tế, điều khiến các doanh nghiệp thuê ít lao động hơn,
và cắt giảm sản lượng. Theo lý thuyết giá cả cứng nhắc, sự giảm sút mức giá ngoài dự
kiến làm cho một số doanh nghiệp có giá tạm thời quá cao, nó làm giảm doanh số bán ra
và làm các doanh nghiệp cắt giảm sản lượng. Cả ba lý thuyết này đều hàm ý rằng sản
lượng lệch khỏi mức tự nhiên của nó khi mức giá lệch khỏi mức giá mà mọi người dự
kiến.
Các biến cố làm thay đổi năng lực sản xuất của nền kinh tế, như thay đổi trong lao động,
tư bản, tài nguyên thiên nhiên hoặc công nghệ, làm dịch chuyển đường tổng cung ngắn
hạn (và có thể làm dịch chuyển cả đường tổng cung dài hạn). Ngoài ra, vị trí của đường
tổng cung ngắn hạn còn phụ thuộc vào mức giá dự kiến.
Một trong những nguyên nhân có thể gây ra biến động kinh tế là sự dịch chuyển của
đường tổng cầu. Ví dụ khi đường tổng cầu dịch chuyển sang trái, sản lượng và giá cả
giảm trong ngắn hạn. Theo thời gian, khi sự thay đổi trong mức giá dự kiến làm cho
nhận thức, tiền lương, và giá cả điều chỉnh, đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển
sang phải và nền kinh tế quay trở lại mức sản lượng tự nhiên với mức giá mới thấp
hơn.
Nguyên nhân thứ hai của các biến động kinh tế ngắn hạn có thể là sự dịch chuyển của
đường tổng cung. Khi đường tổng cung dịch chuyển sang trái, tác động trong ngắn hạn là
sản lượng giảm và giá cả tăng - sự kết hợp được gọi là lạm phát kèm suy thoái. Theo thời