Beruflich Dokumente
Kultur Dokumente
2 năm 2016: giải thích ngắ n gon sự khác nhau trong cơ chế cấ p phát Ipv6 giữa
Stateful Autoconfiguration và Stateless Autoconfiguration
Sự khác biệt cơ bản giữa cấu hình Stateful Autoconfiguration và Stateless Autoconfiguration
là ai sẽ quản lý địa chỉ cấp phát
Tự động cấu hình có trạng thái (Stateful Address Autoconfiguration)
Trong ví dụ về phân bổ Stateful là DHCP. DHCPv6 được phát triển từ BOOTP. DHCP cho phép
host config bằng DHCP server. Server sẽ lưu những thông tin về địa chỉ IP, địa chỉ link layer của
tất cả các node sử dụng dịch vụ này để tránh có hai node sử dụng cùng một địa chỉ IP.
DHCP Server có thể cung cấp địa chỉ theo 3 cách : - Automatic: DHCP server sẽ gán địa chỉ IP 1
cách lâu dài cho host - Dynamic: DHCP sẽ cấp phát địa chỉ cho host trong 1 khoảng thời gian
nhất định - Manual: người quản trị sẽ cấp phát địa chỉ IP cho host và DHCP chỉ được dùng để vận
chuyển địa chỉ này đến host. Trong cả 3 trường hợp, đều đòi hỏi Server phải lưu giữ thông tin về
địa chỉ đã cấp
Tự động cấu hình địa chỉ không trạng thái (Stateless Address Autoconfiguration)
Stateless Autoconfiguration IPv6 được thiết kế theo kiểu “plug and play”. Trong một mạng cục
bộ, nếu các máy tính kết nối và liên kết được tới Router thì lúc này diễn ra quá trình gọi là
Stateless Autoconfiguration – Tự động cấu hình phi trạng thái. Điều này đồng nghĩa với việc cho
phép các thiết bị kết nối vào mạng mà không cần bất kỳ cấu hình nào và cũng không cần có bất
kỳ máy chủ nào
Bước sang những năm đầu thế kỷ XXI, ứng dụng của Internet phát triển nhằm cung cấp dịch vụ
cho người dùng trên các thiết bị mới ra đời như: Notebook, Cellualar Modem, Tablet, Smart
Phone,… Để có thể đưa những khái niệm mới dựa trên cơ sở TCP/IP này thành hiện thực, TCP/IP
phải mở rộng được đó là tài nguyên mạng ngày càng hạn hẹp. Việc phát triển về thiết bị, cơ sở hạ
tầng, nhân lực…không phải là một khó khăn lớn. Vấn đề ở đây là địa chỉ IP, không gian địa chỉ
IPv4 đã cạn kiệt không thể đáp ứng nhu cầu của sự phát triển mở rộng của mạng. Bước tiến quan
trọng, mang tính chiến lược đối với kế hoạch mở rộng này là việc nghiên cứu cho ra đời một thế
hệ sau của giao thức IPv4, đó chính là IPv6.
IPv6 ra đời không có nghĩa là phủ nhận ngay IPv4. Vì là một phiên bản mới của công nghệ IP,
nên việc nghiên cứu và ứng dụng vào thực tiễn luôn là một thách thức lớn. Một trong những
thách thức lớn đó là khả năng tương thích giữa IPv6 và IPv4, liên quan đến việc chuyển đổi giữa
IPv6 và IPv4, làm thế nào mà người sử dụng có thể khai thác hết tính năng của IPv6 nhưng nhất
thiết phải nâng cấp toàn bộ thiết bị mạng như LAN, WAN, Internet,… lên IPv6.