Sie sind auf Seite 1von 38

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG I: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 3
1.1. Khái niệm, vị trí của CSTT 3
1.2. Mục tiêu của CSTT 4
1.3. Các công cụ của CSTT 4
1.3.1 Nghiệp vụ thị trường Mở 4
1.3.2 Dự trữ bắt buộc 5
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu 5
1.3.4 Quản lý hạn mức tín dụng 6
1.3.5 Quản lý lãi suất 7
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ 8
CỦA CSTT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
2.1. Sự đổi mới trong việc thực hiện CSTT 8
2.2. Việc sử dụng các công cụ của CSTT những năm qua 8
2.2.1. Công cụ lãi suất 8
2.2.2. Công cụ hạn mức tín dụng 14
2.2.3. Công cụ dự trữ bắt buộc 16
2.2.4. Công cụ cho vay tái chiết khấu 18
2.2.5. Công cụ nghiệp vụ thị trường Mở 20
2.3. Đánh giá qúa trình thực hiện các công cụ của CSTT những năm 22
vừa qua.
2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô. 22
2.3.2 Những vấn đề tồn tại trong quá trình thực hiện các công cụ 24
của CSTT những năm qua.
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA 28
CSTT Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng 28
3.1.1 Bối cảnh trong nước và Quốc tế 28
3.1.2 Một số định hướng cơ bản 29
3.2 Giải pháp 29
3.2.1 Nhóm giải pháp về việc tạo môi trường, điều kiện thuận lơị 29
3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của CSTT. 30
KẾT LUẬN 34

1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Frederic S. Mishkin: “Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính”NXB
khoa học và kỹ thuật Hà nội - 1996
2 PTS. Lê Vinh Danh: “Tiền và hoạt động Ngân hàng”. NXB CTQ6-
H1997
3. PTS. Nguyễn Ngọc Hùng: “Lý thuyết tiền tệ - Ngân hàng” NXB tài
chính. 1998
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Ngân hàng Việt Nam, quá trình xây
dựng và phát triển” NXB CTQ6-H 1996
5. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Báo cáo thường niên” các năm
1993, 1994, 1995, 1996, 1997, 1998, 1999, “Báo cáo diễn biến khu vực tiền
tệ” năm 2000.
6. “Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam” NXB CTQG, H 1998
7. PTS. Nguyễn Anh Dũng - Lân Hồng Cường: “chính sách tiền tệ trên
nền tảng lý luận và thực tiễn Việt Nam. TC Ngân hàng số 6/1996.
8. Nguyễn Sơn Tùng: “ Về chính sách tiền tệ mềm dẻo”. TC Ngân hàng
8/1997.
9. PTS Mai Bạn: “Xây dựng và điều hành CSTT sát hợp với thực tế Việt
Nam” TC Ngân hàng số 12/1998.
10. Th.S Tô Kim Ngọc: “ Hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong
điều hành CSTT ở Việt Nam” TC Ngân hàng số 1+2/2000.
11. Th.S Nguyễn Thị Thuý Vân: “ Hoàn thiện các công cụ điều hành
CSTT ở Việt Nam hiện nay” TC Ngân hàng số 12/1999.
12. PTS Nguyễn Văn Thắng: “ Chuyển đổi công cụ của CSTT từ trực
tiếp sang gián tiếp” TC Ngân hàng số 12/1999.
13. TS. Vũ Viết Ngoạn “Toàn cầu hoá - cơ hội và thách thức đối với
CSTT của Việt Nam” TC Ngân hàng số 2/1999.

2
14. Th.s. Nguyễn Văn Bắc: “ Một số tác động của chính sách lãi suất đối
với hoạt động của NHTM trong thời gian qua” TC Ngân hàng số 6/2000
15. TS. Nguyễn Đăng Dờn: “ Vài ý kiến về lãi suất, lãi suất cơ bản và cơ
xu hướng tự do hoá lãi suất ở Việt Nam hiện nay” TC Ngân hàng số 6/2000.
16. Th.s. Lê Văn Hải: “Một số giải pháp sử dụng nghiệp vụ thị trường
mở”.TC Ngân hàng số 8/2000.
17. Nguyễn Hữu Nghĩa: “Vận hành nghiệp vụ thị trường mở trong cơ
chế thị trường” . TC Ngân hàng số 8/2000.
18. Đức Hạnh: “Ngân hàng TW và hoạt động nghiệp vụ thị trường mở”
TC khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 4/2000.
19. PGS.PTS. Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân “Vấn đề dự trữ tiền mặt trong
hoạt động ngân hàng hiện đại” TC Ngân hàng số 8/1998
20. Ngọc Minh: “Công cụ hạn mức tín dụng hiện nay và những đề xuất
trong thời gian tới” TC Ngân hàng số 23/1998.
21. PTS Nguyễn Võ Ngoạn: “Hạn mức tín dụng và lãi suất tín dụng
trong hệ thống công cụ của CSTT quốc gia” TC Ngân hàng số 7/1997.
22. PTS Phạm Ngọc Long: “Hoàn thiện CSTT với việc kiềm chế lạm
phát và tăng trưởng kinh tế” TC Ngân hàng số 6/1997.

3
Mở đầu

Tính cấp thiết của đề tài: Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết
kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì
nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ
tăng trưởng, lạm phát... Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì
việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các
công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng
đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn
các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn
là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các
nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu
kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện
nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính
sách tiền tệ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu
về chính sách tiền tệ ,em quyết định chọn đề tài: “Các công cụ của chính
sách tiền tệ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”.
Nội dung, đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Đề tài sẽ hệ thống hoá
những vấn đề có tính lý luận về chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
đồng thời qua việc khảo sát quá trình sử dụng các công cụ của chính sách tiền
tệ ở Việt Nam (từ năm 1989 đến nay) nhằm đánh giá thực trạng sử dụng, điều
hành các công cụ đó, trên cơ sở đó đề ra những giải pháp góp phần hoàn thiện
và nâng cao hiệu quả các công cụ của ch`ính sách tiền tệ ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Lấy phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử làm phương pháp luận cơ bản kết hợp với quan điểm tiếp cận hệ
thống và sử dụng các phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương
pháp phân tích tổng hợp cùng các phương pháp nghiên cứu kinh tế khác.

4
Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 3 chương
được bố cục như sau:
Chương 1: Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
Chương 2: Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở
Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện các công cụ của hính
sách tiền tệ ở Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo
Phạm Hồng Vân đã giúp em hoàn thành đề án này.

5
Nội dung
--0o0--
Chương 1
chính sách tiền tệ trong nền kinh tế
thị trường .

1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ :


Khái niệm chính sách tiền tệ : Chính sách tiền tệ là một chính sách
kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các
công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng
tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế .
Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai
hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy
sản xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ
chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt(giảm cung tiền , tăng lãi
suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng
thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền)
Vị trí chính sách tiền tệ : Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô
của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng
nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ .Song nó cũng có
quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài
khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách
chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm
làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.

6
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
*ổn định giá trị đồng tiền: NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến
sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình.Giá trị đồng tiền ổn định
được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng
hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại(tỷ giá của đồng tiền nước
mình so với ngoại tệ).Tuy vậy ,CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền
không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát
triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp
tăng lên.
*Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng
trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất
kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế .Để có
một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên.
*Tăng trưởng kinh tế :Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi
chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để
giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản
tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ
.Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách
hài hoà.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu :Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau,
không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này
có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau.Vậyđể đạt được các
mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải
có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
1.3 Các công cụ của CSTT :
1.3.1.Nghiệp vụ thị trường mở:
Khái niệm: Là những hoạt động mua bán chứng khoán do NHTW thực
hiện trên thị trường mở nhằm tác động tới cơ số tiền tệ qua đó đIều tiết lượng
tiền cung ứng.
Cơ chế tác động:Khi NHTW mua (bán)chứng khoán thì sẽ làm cho cơ
số tiền tệ tăng lên (giảm đi) dẫn đến mức cung tiền tăng lên (giảm đi).

7
Nếu thị trường mở chỉ gồm NHTW và các NHTM thì hoạt động này sẽ
làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các NHTM (R ),nếu bao gồm cả công
chúng thì nó sẽ làm thay đổi ngay lượng tiền mặt trong lưu thông(C)
Đặc điểm:Do vận dụng tính linh hoạt của thị trường nên đây được coi là
một công cụ rất năng động ,hiệu quả,chính xác của CSTT vì khối lượng
chứng khoán mua( bán ) tỷ lệ với qui mô lượng tiền cung ứng cần đIều
chỉnh,ít tốn kém về chi phí ,dễ đảo ngược tình thế.Tuy vậy, vì được thực hiện
thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham
gia trên thị trường và mặt khác để công cụ này hiệu quả thì cần phảI có sự
phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ ,thị trường vốn.
1.3.2 Dự trữ bắt buộc:
Khái niệm :Số tiền dự trữ bắt buộc là số tiền mà các NH phảI giữ lại,do
NHTW qui định ,gửi tại NHTW,không hưởng lãI,không được dùng để đầu
tư,cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng só
tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán,sự ổn định của hệ
thống ngân hàng
Cơ chế tác động:Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp
đến số nhân tiền tệ (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các
NHTM.Mặt khác khi tăng (giảm ) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay
của các NHTM giảm (tăng), làm cho lãI suất cho vay tăng (giảm),từ đó làm
cho lượng cung ứng tiền giảm (tăng).
Đặc đIểm:Đây là công cụ mang nặng tính quản lý Nhà nước nên giúp
NHTW chủ động trong việc đIều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của
nó cũng rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh
hưởng tới một lượng rất lớn mức cung tiền). Song tính linh hoạt của nó không
cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm ,phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh
hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu:
Khái niệm : Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn
đối với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc đIều chỉnh

8
lãI suất táI chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay táI chiết
khấu(cửa sổ chiết khấu)
Cơ chế tác động:Khi NHTW tăng (giảm ) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn
chế (khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho
vay của các NHTM giảm (tăng) từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh
tế giảm (tăng).Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của
mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ngoài ra, ở các nước có thị trường chưa phát triển (thương phiếu chưa
phổ biến để có thể làm công cụ táI chiết khấu) thì NHTW còn thực hiện
nghiệp vụ này thông qua việc cho vay táI cấp vốn ngắn hạn đối với các
NHTM.
Đặc điểm:Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là
người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn
trong thanh toán ,và có thế kiểm soát đựoc hoạt động tín dụng của các NHTM
đồng thời có thể tác động tới việc đIều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế
thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể.Tuy vậy ,hiệu qủa của
cộng cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các NHTM, mặt khác
mức lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó ,sai lệch thông tin về cung cầu
vốn trên thị trường.
Trên đây là 3 công cụ tác động gián tiếp tới qui mô lượng tiền cung
ứng,trong một nền kinh tế nếu NHTW sử dụng có hiệu quả cấc công cụ này
thì sẽ không cần đến bất cứ một công cụ nào khác .Tuy vậy trong những điều
kiện cụ thể (các quốc gia đang phát triển ;các giai đoạn kinh tế quá nóng ) thì
để đạt được mục tiêu của mình ,NHTW có thể sử dụng các công cụ điều tiết
trực tiếp sau:
1.3.4. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
Khái niệm :là việc NHTW quy định tổng mức dư nợ của các NHTM
không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất định(một
năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn
mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ

9
mô(tốc độ tăng trưởng ,lạm phátiêu thụ..)sau đó NHTW sẽ phân bổ cho các
NHTM và NHTM không thể cho vay vượt quá hạn mức do NHTW quy định .
Cơ chế tác động:Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối
với lượng tiền cung ứng,việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng
cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo
mục tiêu của NHTM.
Đặc điểm:Giúp NHTW điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung ứng
khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả ,đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất
cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng,tỷ lệ lạm phát quá cao của nền
kinh tế .Song nhược điểm của nó rất lớn : triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa
các NHTM,làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế ,dễ phát sinh
nhiều hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá
kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
1.3.5 Quản lý lãi suất của các NHTM:
Khái niệm :NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi
suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó,từ đó
ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được
quản lý mức cung tiền của mình.
Cơ chế tác động:Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm
sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm
cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
Đặc điểm:Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo
mục tiêu của từng thời kỳ,đIều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều
kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi
tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãI suất là “giá cả”
của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn
trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh lãI suất dễ làm
cho các NHTM bị động,tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.

10
Chương 2
Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt
Nam hiện nay.

2.1 Sự đổi mới trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.
Kể khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực
hiện chính sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh
tế của nó và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: Nếu như trong thời kỳ bao cấp
chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền
mặt và mức cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nào là do chính phủ phê duyệt thì
ngày nay việc quan niệm về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng
tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo tiền của các NHTM, tổ chức tín dụng
khác (D). Bên cạnh đó lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỉ
lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch, vòng quay tiền
tệ...
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: Được sử dụng một cách
linh hoạt, phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không
đông cứng, đóng băng như thời kì bao cấp (lãi mất cố định nhiều năm...)
Cơ chế điều hành: Năm 1988, Hệ thlống NH đã được phân thành 2 cấp
NHNN và các NHTM, trong đó NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trên
lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân hàng; trực thuộc chính phủ. Thống đốc NHNN
có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp trong việc thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia.
2.2 Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ những năm qua.
2.2.1. Công cụ lãi suất:
ở Việt Nam, lãi suất được sử dụng như công cụ chính của chính sách
tiền tệ, nó là yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá

11
stập trung sang cơ chế thị trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các
Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh.
Giai đoạn 1988- 1991: Chính sách lãi suất được thay đổi cơ bản: Lãi suất
tiết kiệm cao hơn tốc độ trượt giá (lạm phát ), nâng lãi suất tiền gửi và tiền
vay của các tổ chức kinh tế tiến gần với lãi suất huy động tiết kiệm.Lãi suất
cho vay vốn lưu động và tốc độ lạm phát (%) ư
Biểu1: Lãi suất cho vay vốn lưu động và tốc độ lạm phát(%).
Từ T3/81- T10/91

1. Lãi tiết kiệm 3/89 6/89 7/89 2/90 IV/90 7/91 10/91
- Loại 3T 12 9 7 7 4 3,5 3,5

- Loại không kì hạn 9 7 5 5 2,4 2,1 2,1

2. Lãi cho vay vốn 6,8- 5,1- 3-4 3-4 1,8 1,8 2,1-
lưu động 6,5 5,5 3,7

3. Tốc độ ép + 5,4 - 2,9 -2,5 +0,2 +7,6 +2,5 +5,5

Nhờ việc tăng lãi suất huy động vốn đã thực hiện được chủ trương của
Nhà nước là đâỷ lùi lạm phát và có cơ sở để thực hiện việc tài trợ vốn
cho các xí nghiệp quốc doanh đang lâm vào tình trạng khủng hoảng lúc bấy
giờ. Song xét trên bình diện toàn nền kinh tế thì chúng ta đã thất bại trong lĩnh
vực đầu tư vì lãi suất cho vay quá cao, vốn ngân hàng ứ đọng, nền kinh tế
phát sinh các hoạt động kinh tế thiếu tính cực : vay tiền chơi đề, hoặc để gửi
lãi ăn chênh lệch. Tình trạng đó đã dẫn đến sự đổ bể của các HTX tín dụng
còn các NHTM thực chất là phá sản nếu không có bàn tay cứu giúp của Nhà
nước.
Việc thi hành chính sách lãi suất thực dương đã được thực hiện nhưng lại
chưa triệt để vì thực tế với các ngân hàng thì lãi suất cho vay lại nhỏ hơn lãi
suất huy động: Năm 1991 lãi suất huy động tiết kiệm 45% năm; chỉ số trượt
giá bình quân 43,4% năm ; lãi suất cho vay 40,2% năm.

12
Giai đoạn 1992-1995: Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như công cụ
chính của CSTT, lãi suất thực dương bắt đầu được duy trì từ cuối 1992, điều
chỉnh linh hoạt cùng với tỉ lệ lạm phát và bám sát thị trường (trong thời gian 2
năm từ T8/1992-T8/1994 mức lãi suất được điều chỉnh tới 6 lần), NHNN
khống chế “sàn ” lãi suất tiền gửi, trần lãi suất cho vay và có một bộ phận cho
vay theo lãi suất thoả thuận (T8/1992: Lãi tiết kiệm loại 3 tháng: 2,3%, lãi cho
vay 2,5%, lạm phát +0,3%).
Để thực hiện nguyên tắc trên đồng thời tạo điều kiện giảm lãi suất cho
vay để khuyến khích đầu tư phát triển trong nền kinh tế một số biện pháp sau
đây đã được sử dụng:
. Thay đổi cơ cấu nguồn vốn ngân hàng theo hướng tăng nhanh nguồn
vốn có lãi suất thấp ( tăng tiền gửi giao dịch, vốn tín dụng nước ngoài, vốn
ngân sách)
. Thu hẹp chênh lệch lãi suất huy động và cho vay giữa ngoại tệ và bản
tệ theo hướng tăng lãi suất đối với ngoại tệ: Lãi suất cho vay ngoại tệ năm
1993 là 7,5% lên 8,5% năm 1994 và 9,0% năm 1995 và điều chỉnh hàng tháng
lãi suất ngoại tệ theo biến động lãi mất thị trường TCQT SINGAPORE.
. Qua việc quốc hội thông qua dự luật bỏ thuế doanh thu NH đã hỗ trợ
cho NHNN tiến thêm một bước trong việc cải tiến lãi suất vào cuối T12/1995:
Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa giảm từ 2,1% tháng xuống 1,75% tháng ; lãi
suất cho vay trung - dài hạn được giữ nguyên không quá 1,7% tháng. Mặt
khác có quy định để các NHTM tuân thủ chênh lệch lãi suất bình quân giữa
huy động và cho vay là 0,35% tháng.
Ngoài ra, từ T8/94: Chính sách lãi suất TD còn được cải cách theo
hướng nâng lãi suất tiền gửi có kì hạn lên gần với lãi suất tiền gửi tiết kiệm
của dân cư cùng kì hạn để bảo đảm lợi ích kinh tế chính đáng của họ và
khuyến khích họ gưỉ tiền vào ngân hàng. Đồng thời thực hiện lãi suất cho vay
trung, dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn: Năm 1994 giữ nguyên mức
lãi suất cho vay ngắn hạn; nâng lãi suất cho vay trung hạn, dài hạn từ 1,2%
lên 1,7% tháng.

13
Quá trình cải cách lãi suất trên đã nâng cao tính chủ động cho các
NHTM trong việc ấn định mức lãi suất cụ thể theo yêu cầu huy động vốn và
nhu cầu tín dụng thị trường, tăng sự cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và
làm giảm chi phí NH có lợi cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các NHTM
thực hiện điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo mục tiêu chính sách tín dụng.
Giai đoạn từ 1996- Nay: Đến cuối 1996, NHNN chỉ quy định các mức
lãi suất :“trần” theo thời hạn cho vay và khống chế tỷ lệ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân chung là 0,35%(tháng) (4,2%
năm). Trong phạm vi “trần” lãi suất và tỷ lệ chênh lệch lãi suất được công bố,
các NHTM được điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất cho vay và huy động
vốn phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và đặc điểm kinh doanh riêng. Sau
4 lần điều chỉnh lãi suất kể từ cuối 1995: Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa
giảm từ 22% năm xuống 15% năm, lãi suất cho vay trung- dài hạn giảm 21%
năm xuống còn 16,2% năm.
Mặt khác nhằm điều chỉnh các luồng vốn dư thừa từ thành thị về nông
thôn thì lãi suất cho vay ở nông thông được duy trì cao hơn một chút so với
lãi suất cho vay ở thành thị.
Trong năm 1997, với mục tiêu góp phần tăng trưởng kinh tế và phù hợp
xu hướng giảm lãi suất, việc quy định trần lãi suất cho vay giảm mạnh,
T7/1997 lãi suất cho vay ngắn hạn giảm từ 1,2% tháng xuống 1% tháng, lãi
suất cho vay trung dài hạn giảm từ 1,35% tháng xuống 1,1% tháng ,chênh
lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân quy định là 0,35% tháng(4,2%
năm)
Tuy nhiên từ quý IV năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, đồng USD có xu hướng lên giá và lãi
xuất tiền gửi bằng USD ở mức cao trong khi lãi suất huy động của
VND ở mức thấp nên đã có hiện tượng người gửi tiền rút VND để chuyển
sang USD. Nhiều tổ chức kinh tế và dân cư găm giữ USD gây khó khăn cho
các NHTM và tăng sức ép đối với đồng nội tệ, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn cho

14
thị trường tiền tệ và việc huy động vốn của các NHTM, đặc biệt là một số
NHTM cổ phần.
. Trước tình hình đó, ngày 20/1/1998, thống đốc NHNN ra QĐ số
39/1998 / QĐ- NHNN1 với nội dung chủ yếu là:
- Đưa ra mức trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng bằng VND:
lãi cho vay ngắn hạn từ 1%-1,2% tháng; lãi suất cho vay trung và dài hạn là
1,1- 1,25% tháng ; đồng thời xoá bỏ sự chênh lệch về lãi suất giữa 2 khu vực
thành thị và nông thôn. Đó là cơ sở tăng lãi suất huy động vốn VND. Hạn chế
rút tiền VND tích trữ USD ,tăng vốn cho sản xuất kinh doanh.
- Quy định trần lãi suất cho vay bằng USD vẫn giữ nguyên 8,5% năm
như trước đây đồng thời NHNN còn quy định lãi suất tiền gửi tối đa của các
pháp nhân tại TCTD nhằm hạn chế việc quản lí ngoại tệ trên tài khoản tiền
gửi góp phần tăng cường cho việc quản lí ngoại hối.
- Đến cuối năm, trần lãi suất cho vay bằng USD được điều chỉnh giảm từ
8,5 % xuống 7,5% năm để phù hợp với cân bằng lãi suất LiBOR, SiBOR hiện
hành; đồng thời góp phần mở rộng cho vay ngoại tệ đối với nền kinh tế.
Nhìn chung việc điều chỉnh lãi suất trong năm 1998 là phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô và tỷ giá, nó đã có tác động tích cực đối với việc huy
động vốn và cho vay trong nền kinh tế. Tổng số vốn huy động ở hầu hết các
tổ chức tín dụng đều tăng lên điều đó cho thấy mối tương quan giữa lạm phát
và lãi suất tiền gửi được coi là tương đối hợp lý. Từ đó, quy mô tín dụng cung
ứng cho nền kinh tế tăng lên đặc biệt tín dụng bằng VND có tốc độ tăng cao
hơn. Thị trường ngoại tệ ,tỉ giá VND/USD lại trở về trạng thái tương đối ổn
định.
Bước sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu tăng trưởng chững lại, để
phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ
và thực hiện giải pháp kích cầu về đầu tư của chính phủ , NHNN đã 5 lần điều
chỉnh trần lãi suất cho vay bằng VND theo xu hướng giảm: Từ 1,2% tháng
(ngắn hạn) và (1,25%tháng -trung dài hạn) xuống mức thấp nhất là 0,85%
tháng (thành thị); 1% tháng (nông thôn); 1,15% tháng (NHTMCP nông thôn-

15
Quỹ TDND cơ sở ); 0,7% (NH phục vụ người nghèo). Trần lãi suất cho vay
bằng USD là 7,5% năm.
Sự điều chỉnh lãi suất trên là quyết định hết sức kịp thời và phù hợp với
diễn biến của nền kinh tế, kích thích tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh nguy
cơ giảm phát đang là chậm lại tốc độ tăng trưởng.
Năm 2000, lãi suất trong nước có những diễn biến khá phức tạp .Thực
hiện chủ trương kích cầu của chính phủ, lãi suất cho vay bằng VND vẫn tiếp
tục được điều chỉnh theo xu hướng giảm: lãi suất cho vay phổ biến gỉam từ
0,75% tháng xuống 0,70% tháng. Trong khi đó lãi suất ngoại tệ lại chịu tác
động của thị trường tài chính quốc tế, trong năm 2000, lãi suất thị trường
quốc tế liên tục tăng buộc lãi suất ngoại tệ trong nước cũng phải tăng theo (từ
3,5% năm lên 4,5% năm ), nhiều khi lãi suất VND thấp hơn lãi suất USD.
Ngày 2/8/2000, NHNN đã quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất:
chuyển từ cơ chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ
bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối
với cho vay bằng ngoại tệ: Đối với cho vay VND, lãi suất cho vay không vượt
quá lãi suất cơ bản được công bố hàng tháng. Hiện nay, lãi suất cơ bản là
0,75% tháng, biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% tháng, biên độ cho vay trung
và dài hạn là 0,5% tháng. Đối với lãi suất cho vay USD, lãi suất cho vay
không vượt quá lãi suất USD trên thị trường liên NH Singapore (SiBOR) kì
hạn 3 tháng đôí với cho vay ngắn hạn, kì hạn 6 tháng đối với cho vay trung
dài hạn tại thời điểm cho vay cộng biên độ do thống đốc NHNN quy định
(Hiện nay biên độ cho vay ngắn hạn là 1% năm , biên độ cho vay trung dài
hạn là 2,5% năm ). Còn đối với các ngoại tệ khác do chiếm tỷ trọng nhỏ trong
hoạt động tiền gửi TD nên cho phép các TCTD tự xác định.
Với nội dụng điều hành lãi suất cơ bản như trên cho thấy lãi suất cơ bản
được xác định trên cơ sở lãi suất thị trường với mức độ rủi ro thấp, đảm bảo
sự kiểm soát lãi suất của NHNN, phù hợp thực tiễn Việt Nam, đây là một
bước tiến mới, bước đi tiếp theo trong tiến trình tự do hoá lãi suất.

16
Như vậy, chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp cùng với việc ổn định
tỷ giá VND/USD trong những năm qua không những góp phần quan trọng
trong quá trình ổn định kinh tế vĩ mô mà còn làm tăng tính hấp dẫn của đồng
tiền Việt Nam và lòng tin của dẫn chúng vào hệ thống ngân hàng, giảm dần
tình trạng sử dụng hay cất trữ USD, từng bước đẩy lùi tình trạng “đô la hoá” ở
Việt Nam.
Điều đó chứng tỏ rằng: Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển
chưa cao, việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN Việt Nam là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
2.2.2 Công cụ Hạn mức tín dụng:
Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu
của thời kì đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm
phát: Những năm 1990-1991do lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6% tháng ). Để
khống chế lạm phát, NHNN chủ trương thi hành CSTT “thắt chặt” ngay từ
đầu năm để giảm bớt lượng tiền cung ứng. Dựa trên một số chỉ tiêu vĩ mô dự
kiến năm 1992 là: Tăng trưởng kinh tế (4,5%); chỉ số lạm phát (30%/ năm),
NHNN đưa ra hạn mức tín dụng đối với tất cả hệ thống NHTM là 34,5%
(mức tăng so với năm trước) . Bằng nhiều biện pháp kết hợp, năm đó chúng ta
đã đạt được kết quả thực tế rất khả quan: mức tăng trưởng kinh tế tăng gấp 2
lần so với dự kiến (8,65%), mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất nhiều (17,6%),
tiền tệ đi dần vào ổn định.
ở thời kỳ đầu, công cụ hạn mức TD chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD( NH
Ngoại thương, NH Công thương, NH Nông nghiệp, NH đầu tư phát triển)
nhưng sau vài năm đổi mới, do quy mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá
nhanh, số lượng các NHTM ngày càng nhiều nên NHNN quyết định áp dụng
hạn mức tín dụng cho hầu hết các NHTM. Tính đến cuối năm 1997 có 26
NHTM trong nước phải áp dụng hạn mức tín dụng còn các NH nước ngoài và
NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng đáng kể (10-15% thị phần tín dụng
trong nước) nhưng vẫn chưa phải áp dụng hạn mức tín dụng.

17
Những năm sau đó, đặc biệt là từ 1995 đến 1997, NHNN vẫn tiếp tục
thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” để kiểm soát lạm phát từ đó đưa ra rỉ
lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các NHTM. Song kết quả thực tế cho
thấy hiện tượng phổ biến là hầu hết các NHTM đều có xu hướng vượt qúa chỉ
tiêu hạn mức tín dụng được giao, cụ thể .
Biểu 2: Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng (1995-1998).

1995 1996 1997 Quỹ T D


Năm /1998
Danh mục KH giao Thực KH Thực KH Thực KH Thực
hiện giao hiện giao hiện giao hiện

Tăng so với 21% 37,8% 25% 29% 21% 26,4% 4% 4,8%


năm trước

Hiện tượng trên xuất phát từ hai nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, trong giai đoạn nay tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân
hàng năm của các NHTM tăng nhanh (khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các
NHTM tất yếu phải thực hiện đầu tư tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế
vì con đường để đầu tư qua thị trường tiền tệ, thị trường vốn là khó khăn
trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ.
Thứ hai, Do diễn biến lãi suất đang có xu hướng giảm trần lãi suất cho
vay trong khi đó để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi
suất huy động (do tâm lý người dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh
lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy động giao động ở mức 0,15% -
0,25% tháng, thấp hơn so với trước đây 0,3%-0,45% tháng. Với chênh lệch
như vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh đủ bù đắp chi phí hoạt động thì
buộc các NHTM phải tăng dư nợ đối với nền kinh tế.
Hiện tượng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1995-
1997 mặc dù lạm phát được kiểm chế ở mức thấp (bình quân 6,9% năm)
nhưng nền kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao 9,28% năm.

18
Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần
vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán
vì lạm phát có xu hướng giảm và thấp dần ; mặt khác nhu cầu vốn của nền
kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998, NHNN đã không áp dụng công cụ
này như một công cụ thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ (mặc dù
có thể coi nó như một giải phóng tình thế khi cần thiết).
Công cụ này sẽ được xoá bỏ hoàn toàn khi thị trường tiền tệ ổn định , thị
trường vốn phát triển và thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
2.2.3 Công cụ Dự trữ bắt buộc
Đây là công cụ gián tiếp điều chỉnh mức cung tiễn được sử dụng sớm
nhất ở Việt Nam (từ 1991), theo pháp lệnh Ngân hàng (1990), tỷ lệ DTBB có
thể ở mức từ 10% đến 30% tổng nguồn vốn huy động của các NHTM.
Song trong điều kiện thực tế lúc bấy giờ khi tiềm lực của các NHTM
Việt Nam còn nhỏ bé và lạm phát đã được kiềm chế ở mức đáng kể, nên
NHNN đã quy định tỉ lệ DTBB là 10%; được áp dụng cho các NHTMQD,
NHTM cổ phần ,chi nhánh NH nước ngoài,NH liên doanh và các công ty tài
chính.
Qua quá trình thực hiện ban đầu cho thấy rất ít NHTM dự trữ đủ 10%
nhất là các NHTM cổ phần, do vậy để nâng cao hiệu quả của công cụ này,
trong năm 1994, NHNN đã hai lần điều chỉnh tỉ lệ DTBB; quy định mức
DTBB thống nhất đối với tất cả các NHTM(có phân biệt với các loại tiền gửi
khác nhau : tiền gửi, tiền tiết kiệm không kì hạn: 13%;tiết kiện kì hạn 3,6
tháng, kì phiếu mục đích, trái phiếu: 8%) ; đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng
quy chế phạt đối với các TCTD không thực hiện đúng quy chế DTBB.
Năm 1995, NHNN quy định (T10/1995) DTBB chỉ được tính đối với
loại tiền gửi có kì hạn từ 12 tháng trở xuống, thống nhất ở mức 10% được áp
dụng cho tất cả các NHTM( trừ NHTMCP nông thôn, HTX tín dụng, quỹ
TDND tạm thời chưa phải thực hiện). Số lần tính DTBB hàng tháng tăng lên,
lại bỏ dần tín phiếu kho bạc trong cơ cấu tiền gửi DTBB; tiễn gửi DTBB được

19
hợp nhất với tiền gửi thanh toán của các NHTM vào một tài khoản chung là
tài khoản tiền gửi không kì hạn tại NHNN. Tiền gửi dự trữ vượt được trả lãi
0,1% tháng (Năm 1996). Điều này đã tạo sự linh hoạt hơn cho việc điều chỉnh
dự trữ của các NHTM tại NHNN, góp phần gián tiếp khống chế lãi suất thị
trường và khối lượng tín dụng cung ứng để thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế
lạm phát.
Đến T12/97, Quy chế DTBB có sự thay đổi để đảm bảo tính cụ thể, rõ
ràng hơn: Tiền gửi DTBB tại NHNN được tính bình quân trong cả kì duy trì,
tỷ lệ DTBB vẫn là 10%, tiền dự trữ vượt được hưởng lãi suất 0,2% tháng
(bằng VND) và 4,86% năm (đối với USD). Đồng thời NHTM nào thiếu tiền
gửi DTBB trong kì duy trì sẽ bị phạt theo mức 200% lãi suất cho vay tái cấp
vốn của NHNN (VND), từ đó khuyến khích các NHTM thực hiện đúng quy
chế DTBB.
Để luật NHNN có hiệu lực (từ 1/10/1998) ,từ cuối 1998 và trong năm
1999, quy chế DTBB có những thay đổi đáng kể: Đối tượng áp dụng được
mở rộng thêm (quỹ TDND, NH hợp tác);số tiền DTBB phải gửi tại NHNN để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia thay cho quy định về cơ cấu tiền DTBB
trước đây: 70% gửi tại NHNN và 30% tiền mặt, ngân phiếu còn thời hạn
thanh toán; việc trả lãi tiền DTBB do chính phủ quy định.
Để tạo đà khôi phục, phát triển kinh tế trong năm 1999 tỉ lệ DTBB được
điều chỉnh nhiều lần theo xu hướng gỉam nhằm nới lỏng tiền tệ, kích thíh đầu
tư, tiêu dùng.
Biểu 3: Tỷ lệ DTBB đối với các TCTD năm 1999

Tỉ lệ DTBB (%)
TCTD
1/1/99 1/3/99 1/6/99 1/7/99 1/10/99

1. NHTMQD, NHTM của đô thị, 10 7 6 5 5


chi nhánh NH nước ngoài, NH
liên doanh & Công ty TC

- NH nông nghiệp và PTNT 10 7 6 5 3

20
2. NHTMCP nông thôn, NH hợp 0 5 4 1 1
tác, Quỹ TDNDTW, khu vực.

3. TCTD có số dư tiền gửi phải 0 0 0 0 0


tính DTBB dưới 500trđ quỹ
TDND cơ sở, HTX tín dụng, NH
phục vụ người nghèo.

Việc giảm tỷ lệ DTBB trên đã đóng góp phần nhất định vào việc mở
rộng tín dụng, giảm chi phí hoạt động và góp phần làm dịu đi những khó khăn
của các NHTM do lãi suất giảm.
Trong năm 2000, NHNN tiếp tục áp dụng tỷ lệ DTBB bằng VND như
năm 1999. Riêng về tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng ngoại tệ để tạo tín hiệu
hạn chế việc các TCTD huy động tiền gửi USD ( qua việc nâng lãi suất huy
động) để gửi ra nước ngoài hưởng chênh lệch lãi suất, khuyến khích các
TCTD cho vay trong nước, ngày 1/10/2000 NHNN đã điều chỉnh tỷ lệ DTBB
đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng là 8% kể từ kỳ duy
trì DTBB tháng 11/2000. Sau đó nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương trên
,ngày 1/12/2000 NHNN tiếp tục nâng tỷ lệ DTBB lên 12% áp dụng từ kỳ duy
trì DTBB 12/2000.
Như vậy, công cụ DTBB ngày càng được hoàn thiện và trở thành công
cụ đắc lực của NHNN Việt Nam trong điều hành chính sách tiền tệ.
2.2.4 Công cụ Cho vay tái chiết khấu
ở Việt Nam, cho vay tái chiết khấu đã được sử dụng như là một công cụ
của CSTT ngay từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, vì chưa hội
đủ những điều kiện nên việc áp dụng nó còn giản đơn làm cho hiệu quả của
nó còn nhiều hạn chế. Mặc dù vậy trong những năm gần đây nó đã trở thành
công cụ đắc lực góp phần thực hiện tốt các mục tiêu của CSTT quốc gia.
Thời kỳ đầu, cho vay chiết khấu được thực hiện qua việc NHNN cho
NHTM vay ngắn hạn căn cứ vào khế ước tín dụng ( có chất lượng ) do
NHTM đem thế chấp tại NHNN, lãi suất tái cấp vốn được xác định dựa theo

21
lãi suất cho vay (cao nhất ) của các NHTM và được điều chỉnh linh hoạt theo
mục tiêu CSTT quốc gia ở mỗi thời kỳ. Năm 1994 với mục tiêu kiềm chế lạm
phát, NHNN hạn chế tới mức thấp nhất mức tái cấp vốn cho các NHTM qua
việc nâng lãi suất tái cấp vốn từ 85% -100% lãi suất cho vay các NHTM,
riêng NH nông nghiệp là 95%. Năm 1995 để đẩy mạnh mục tiêu trên, NHNN
đã ngưng tái cấp vốn cho các NHTM nhằm đẩy mạnh công tác thu hồi nợ và
giảm cho vay tín dụng của các NHTM. Nhờ đó, đến cuối 1995 dư nợ cho vay
chiết khấu của NHNN đã giảm xuống 13% so với 1994. Năm 1996 ,để giải
quyết tình trạng khó khăn trong thanh toán của các NHTM, NH đã thực hiện
việc cho vay ngắn hạn đối với các NHTM trong trường hợp tạm thời thiếu
khả năng thanh toán (qua các phiên thanh toán bù trừ trên từng địa bàn).
Nhưng áp dụng lãĩ suất tái chiết khấu ở mức tối đa. Điều này một mặt bảo
đảm được sự ổn định của hệ thống ngân hàng, mặt khác hạn chế được khả
năng cung ứng vượt qúa về tín dụng của các NHTM đồng thời khuyến khích
việc huy động vốn của các NHTM, cũng hạn chế bớt việc các NHTM vay tiền
của NHNN, vì vậy cuối năm 1996, dư nợ cho vay tái chiết khấu chỉ tăng
3,5% so với 1995.
Trong năm 1997 NHNN đã sử dụng phương thức tái cấp vốn có thế chấp
(bằng chứng từ, tiền gửi ngoại tệ tại NHNN) nhằm bù đắp khó khăn tạm thời
trong thanh toán cho các NHTM. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh từ quy
định 100% lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế sang quy định
mức lãi suất cụ thể (từ tháng 3-tháng 7năm 1997). Mức lãi suất tái cấp vốn
quy định là 1,1% tháng, từ T8/1997là 0,9% ). Do trong năm 1997 các NHTM
đã tích cực hơn trong việc trả nợ NHNN và khả năng huy động vốn tăng nên
đến cuối 1997, dư nợ tái cấp vốn của NHNN giảm 11,9% so với 1996.
Năm 1998, để thực hiện chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm hạn chế sự
gia tăng lạm phát do ảnh hưởng cuả cuộc khủng hoảng tài chính khu vực,
NHNN đã tăng lãi suất tái chiết khấu từ 1% tháng 1,1% tháng (thấp hơn tiền
lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,1% tháng.

22
Năm 1999, với mục tiêu khuyến khích tăng trưởng kinh tế, khắc phục
nguy cơ giảm phát NHNN đã 4 lần điều chỉnh giảm lãi suất cho vay tái cấp
vốn từ mức 1,1% tháng đầu năm xuất 0,5% tháng đồng thời quy chế về
nghiệp vụ chất khấu, tái chiết khấu đã được ban hành để phát triển một bước
hiệu quả công cụ này trong chính sách tiền tệ và tạo khả năng cân đối nguồn
vốn hoạt động cho các ngân hàng. Các giấy tờ có giá ngắn hạnh được chiết
khấu tại NHNN là tín phiếu kho Bạc, trái phiếu NHNN và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác do NHNN quy định ở mỗi thời kỳ. Mức lãi suất tái chiết khấu
được công bố là 0,45% tháng.
Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, nhằm khuyến khích mở rộng tín
dụng của các TCTD, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5% tháng
xuống 0,45% tháng (31/3/2000) và xuống 0,4% tháng (31/7/2000). Đồng thời
NHNN cũng giảm lãi suất tái chiết khấu từ 0,45% tháng xuống còn 0,4%
tháng (T3/2000) và xuống 0,35% tháng (T7/2000). Tuy vậy cho đến T9 /2000
để hạn chế các TCTD bù đắp thiếu hụt thanh toán qua hình thức vay tái cấp
vốn, tái chiết khấu từ NHNN và khuyến khích thực hiện bù đắp qua thị trường
mở nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường này, đồng thời tạo tín hiệu cho
các TCTD tăng lãi suất huy động, ngày 2/11/2000 NHNN đã điều chỉnh tăng
lãi suất tái cấp vốn lên 0,5% tháng và tăng lãi suất tái chiết khấu lên 0,45%
tháng.
Như vậy công cụ cho vay chiết khấu đã dần được áp dụng theo đúng bản
chất của nó là tín hiệu cho các NHTM điều chỉnh lãi suất cùng với sự phát
triển của thị trường ở Việt Nam , trở thành một công cụ đắc lực của chính
sách tiền tệ quốc gia...
2.2.5 Công cụ Nghiệp vụ thị trường mở
Luật NHNN Việt Nam quy định “NHNN thực hiện nghiệp vụ thị trường
mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu
NHNN các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực
hiện CSTT quốc gia”

23
Trước khi thị trường mở chính thức được đưa vào vận hành ở Việt Nam,
NHNN đã từng bước tạo lập cơ sở cho nó qua việc tổ chức đấu thầu và phát
hành các loại tín phiêú, đó là:
Tín phiếu kho bạc Nhà nước (KBNN): từ năm 1996 đến hết năm 1998
NHNN đã phối hợp với KBNN tổ chức đấu thầu tín phiếu và trái phiếu kho
bạc. Năm 1996, KBNN đã phát hành gần 100 tỷ đồng tín phiếu qua NHNN,
sau đó chủ yếu là phát hành trái phiếu kho bạc (thời hạn một năm). Tổng
mệnh giá trúng thầu năm 1997 là 2917,5 tỷ VND (37 đợt ); năm 1998 là
4020,7 tỷ VND (46 đợt),năm 1999 là 3011.6 tỉ VND(46 đợt) , năm 2000 là
4441.0 tỉ VND (43 đợt). Các đối tượng trúng thầu chủ yếu là các NHTM
Quốc doanh, các NHTM cổ phần và các Công ty Bảo hiểm. Song nếu theo
quy định của luật NHNN thì các trái phiếu này không thể sử dụng làm công
cho thị trường mở được.
Tín phiếu NHNN: Do NHNN Việt Nam phát hành từ năm 1995, tính đến
thời điểm tháng 7/1999 NHNN đã tổ chức được 6 đợt phát hành tín phiếu
NHNN. Các đợt này đều được tổ chức vào các thời điểm khi mà tổng phương
tiện thanh toán và lạm phát có xu hướng gia tăng nhằm rút bớt tiền trong lưu
thông. Tổng mệnh giá đã phát hành của cả 6 đợt là 3.400 tỉ VND; phần lớn
các tín phiếu này đều có thời hạn 3 tháng.
Cho đến ngày 12/7/2000, NHNN chính thức khai trương đưa nghiệp vụ
thị trường mở vào hoạt động theo phương hướng sử dụng nó như là một công
cụ điều tiết tiền tệ linh hoạt và có hiệu quả của NHNN.
Trong năm 2000, NHNN đã thực hiện được 17 phiên giao dịch thị
trường mở, trong đó có 14 phiên mua được 1353,50 tỷ đồng đạt 71,24% khối
lượng chào mua với lãi suất trong khoảng 4,20%- 5,58% năm và 3 phiên bán
được 550 tỷ đồng đạt 100% khối lượng chào bán với lãi suất trong khoảng
4,0%- 4,6% năm. Đến 31/12/2000 ; NHNN đã bơm 405 tỷ đồng qua thị
trường mở sau khi loại trừ các khoản mua, bán đã đến hạn thanh toán.
Từ 1/1/2001- 7/2/ 2001, NHNN đã thực hiện được 3 phiên giao dịch mua
được 160 tỉ đồng chỉ đạt 50% khối lượng chào mua với mức lãi suất 3,5-4,6

24
%năm. Đã có 18 tổ chức tín dụng đăng kí là thành viên của thị trường (tuy
vậy mỗi phiên giao dịch chỉ có thường xuyên từ 1 đến 3 thành viên tham
gia)Phương thức giao dịch chủ yếu là Mua- Bán có kì hạn (15 ngày -4tháng )
hoặc mua hẳn- bán hẳn.
Như vậy,ở Việt Nam thị trường mở đã tìm được con đường đi riêng cho
mình và tính ưu việt của nó đã được phát huy tác dụng ở một mức độ nhất
định (đã giúp cho các NHTM được chủ động hơn trong việc điều chỉnh lượng
vốn khả dụng của mình, qua đó NHNN phần nào đã thực hiện được mục tiêu
CSTT quốc gia).Tuy vậy ,đây mới chỉ là giai đoạn khởi đầu và mang tính chất
thử nghiệm nên đòi hỏi nó phải được tiếp tục đổi mới và hoàn thiện.
2.3 Đánh giá quá trình thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ
những năm qua.
2.3.1 Những thành tựu trong việc ổn định kinh tế vĩ mô.
*Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ: Có thể nói đây là thành tựu
đáng được ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm
soát chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng hàng năm và đó được xem như một
bàn tay hữu hiệu đẩy lùi và kiềm chế làm phát, ổn định sức mua của đồng tiền
Việt Nam, làm cho giá cả ổn định, đời sống người dân không ngừng được cải
thiện.
Biểu 4: Mối quan hệ giữa tổng phương tiện thanh toán với tỷ lệ lạm
phát

199 199 199 199 1995 199 1997 1998 1999 200
Năm 1 2 3 4 6 0
Chỉ tiêu

Tốc độ tăng 78 34 19,8 27,8 22,3 22,7 25,4 23,9 39,28 38


của
M2(%)

Tỷ lệ lạm 67,6 17,6 5,2 14,4 12,7 4,5 3,6 9,2 0,9 6
phát (%)

25
Về sức mua đối ngoại của đồng tiền, cơ chế điều hành tỉ gía từng bước
được điều chỉnh phối hợp cùng với các công cụ của CSTT đã dần phù hợp với
thông lệ quốc tế, góp phần đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của
Việt Nam, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu.
Biểu 5: Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu của Việt Nam

Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999


Chỉ tiêu

- Xuất khẩu 24 12 39 28 38 24 4 23,3


(%) =11.540 tr USD

- Nhập khẩu 9 53 48 24 54 -7 11 _
(%)

* Góp phần tăng trưởng kinh tế:Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng
tin của nhân dân vào đồng bản tệ, tạo môi trường đầu tư lành mạnh, thu hút
được nguồn vốn đáng kể từ trong và ngoài nước. Đặc biệt việc điều chỉnh các
công cụ CSTT: lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc... của NHNN ở các giai đoạn cụ
thể đã có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới việc huy động và phân bổ nguồn
vốn có hiệu quả trong nền kinh tế của các TCTD. Cũng từ đó mà góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế liên tục qua các năm.
Biểu 6:Tình hình tăng trưởng kinh tế (GDP) của Việt Nam

9 92 93 94 95 96 97 98 99 2000
Năm 1
Chỉ tiêu

6 DP (tỉ VND) 33.99 36.73 39.98 195.5 213.83 231.2 244.6 256.26 273.43
giá so sánh 1 5 2 67 3 64 76 9 9
1981-1994

26
Tăng trưởng 6 8,6 8,1 8,8 9,5 9,3 8,8 5,8 4,8 6,7
6DP(%)

Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của
CSTT ở Việt Nam đã góp phần đạt được hai mục đích thường mâu thuẫn
nhau đó là: Vừa đẩy lùi lạm phát vừa tăng trưởng kinh tế. Có được kết qủa
này còn phải kể đến vai trò của nhiều CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của
nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta chưa đạt được mức năng suất biên của
sản lượng tiềm năng trong nền kinh tế.
* Ngoài ra, việc sử dụng các công cụ của CSTT cũng góp phần gián tiếp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các thành phần kinh tế, tạo thêm công
ăn việc làm. Năm 1999 cả nước giải quyết được việc làm cho 1,2 triệu lao
động và thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp
nông thôn (năm 2000,tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 11%).

27
2.3.2 Những vấn đề tồn tại trong qúa trình thực hiện các công cụ của
CSTT những năm qua.
Trong những năm qua, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến việc kiểm
soát và điều hành toàn bộ quá trình cung ứng tiền (phương pháp dự đoán
không phù hợp, phương thức điều hành MS không linh hoạt cùng với các biến
đổi kinh tế, mới chỉ quan tâm đến khối lượng tiền phát hành hàng năm cho 2
mục tiêu (cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế thông qua cho vay
chiết khấu các NHTM và mua ngoại tệ, chưa đánh giá đúng khả năng tạo tiền
của các NHTM).
Từ đó dẫn đến việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm
điều tiết sự tăng, giảm khối lượng tiền trong nền kinh tế của NHNN thời gian
qua cũng bị hạn chế ở nhiều mặt.
Nhóm các công cụ trực tiếp: Được sử dụng chủ yếu trong việc điều tiết
cung tiền thời gian qua, những công cụ này chỉ phù hợp với quá trình chuyển
đổi kinh tế trong giai đoạn đầu nhưng trong tương lai sẽ không còn phù hợp
nữa (rõ nhất là công cụ hạn mức tín dụng đã bị loại bỏ từ quý II/98).
Lãi suất là công cụ được sử dụng thường xuyên nhất trong điều hành
CSTT ở Việt Nam vừa qua. Tuy nhiên, cũng như tình trạng ở các nứơc đang
phát triển khác, ở Việt Nam lãi suất không nhạy cảm lắm với đầu tư. Điều này
được thể hiện rõ rệt trong hai năm (1998, 1999) khi trần lãi suất cho vay giảm
liên tục nhưng đầu tư vẫn chưa tăng mạnh, giá cả và sản lượng không những
không tăng mà còn tiếp tục giảm (tuy điều này còn liên quan đến các yếu tố
thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từ yếu tố tiền tệ danh
nghĩa).
.Việc NHNN luôn tiếp điều chỉnh lãi suất trong một khoảng thời gian
ngắn (từ 1/6/99-4/9/99) đã 3 lần giảm lãi suất cho vay )đã gây khó khăn cho
các tổ chức tín dụng.Vì lãi suất cho vay được điều chỉnh giảm (liên tục) trong
khi đó lãi suất nhận gửi ở thời kì trước vẫn giữ nguyên từ đó xuất hiện khả
năng tiềm tàng về rủi ro lãi suất bất khả kháng.Việc điều chỉnh theo xu hướng
giảm trong thời gian qua ít có tác dụng tích cực đến việc tăng cường huy động

28
vốn trong và dài hạn. Việc các NHTM tự quy định lãi suất tiền gửi thanh toán
trong khung trần lãi suất cho vay tối đa đã dẫn tới các NHTM tranh giành
khách hàng bằng việc tăng lãi suất tiền gửi thanh toán lên khá cao, khiến cho
tổng số vốn huy động của toàn ngành NH không tăng mà chỉ chuyển từ NH
này sang NH khác, gây bất ổn định trong kinh doanh.
. Các NHTMQD đang còn phải bao cấp qua lãi suất cho vay theo chỉ đạo
của NHNN, nếu điều này kéo dài sẽ triệt tiêu tính kinh doanh của các NHTM.
. Việc điều chỉnh lãi suất của NHNN nhiều khi còn chậm so với thị
trường vì thế nó có tác dụng khẳng định hơn là hướng dẫn diễn biến thực tế.
Mặt khác cơ sở để NHNN điều chỉnh lãi suất còn nặng về quan điểm trường
phái trọng tiền ( căn cứ vào sự thay đổi của chỉ số giá cả thị trường là chủ yếu,
sự ảnh hưởng của thị trường vốn còn hạn chế)
. Hơn nữa, trong nền KTTT về mặt nguyên tắc thì lãi suất phải được hình
thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Việc kiểm soát lãi suất
của NHNN hiện nay chính là một kiểu can thiệp giá của nhà nước. Nếu cứ
như vậy sẽ là không phù hợp trong tương lai khi hệ thống thị trường ở Việt
Nam phát triển hoàn thiện hơn.
Công cụ dự trữ bắt buộc :Trong nhiều năm liền (kể từ khi có pháp lệnh
NH T5/1990 ) chúng ta duy trì một cách cứng nhắc tỉ lệ DTBB 10%, điều này
chỉ phù hợp trong thời kỳ đầu nhưng sau đó khi đồng tiền Việt Nam đi vào ổn
định thì đó là tỉ lệ không hợp lý, thiếu linh hoạt song NHNN trong thời gian
đó vẫn không có quyền thay đổi vì để sửa đổi pháp lệnh phải có thời gian.
Kể từ khi luật NHNN được thực hiện, tỉ lệ DTBB tuy có được điều chỉnh
giảm đi (0-20%) và linh hoạt hơn nhưng theo nhiều chuyên gia đánh giá thì
nó vẫn ở mức cao.
Việc thực hiện các quy định về DTBB của các TCTD chưa nghiêm, tiềm
ẩn các nguy cơ khủng hoảng khả năng thanh toán. Mặt khác đối tượng phải áp
dụng quy chế DTBB còn chưa đầy đủ, các đối tượng áp dụng thì mức độ tỉ lệ
DTBB còn khác nhau- có nhiều yếu tố khộng hợp lý. Như vậy NHNN vẫn
chưa thực sự tạo ra được một “sân chơi bình đẳng”đối với các TCTD.

29
Trong điều kiện thực tế Việt Nam, tác dụng của công cụ nay còn hạn
chế, chưa biểu hiện rõ nét, thời gian gần đây cùng với lãi suất thị trường, lãi
suất tái cấp vốn, chúng ta đã liên tục hạ thấp tỉ lệ DTBB tuy nhiên vẫn chưa
thúc đẩy nền kinh tế phát triển rõ rệt, kết quả biểu hiện còn khá khiêm tốn.
Thực tế đó chứng tỏ ở Việt Nam hiện nay chưa có một cơ chế đầy đủ để
CSTTC (cụ thể là các công cụ của CSTT) phát huy tác dụng, mối liên hệ - tác
động của nó với các biến số kinh tế vĩ mô còn rất hạn chế.
Công cụ cho vay tái chiết khấu: Chúng ta còn thiếu tiền đề quan trọng
để thực hiện nghiệp vụ này đó là việc sử dụng thương phiếu chưa phát triển
phổ biến trong các giao dịch thương mại; công cụ mà NHNN thực hiện
nghiệp vụ này là các tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN. Theo lý thuyết,
lương tiền phát hành vào lưu thông qua con đường tái chiết khấu sẽ là phù
hợp hơn nếu nó được dựa trên các thương phiếu(vì lượng tiền đó được bảo
đảm bằng sự gia tăng khối lượng hàng hoá của nền kinh tế) .
. Việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán của
các NHTM hiện nay phải chăng là quá dễ dãi theo nguyên lí phát hành tiền.
Nó có thể đáp ứng nhu cầu trước mắt của các NHTM nhưng nó cũng dễ phát
sinh các tiêu cực trong qúa trình thực hiện , chưa kích thích sự năng động của
các NHTM . Như vậy sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát, gây bất ổn đối với giá trị
đồng tiền quốc gia.
.Trong việc điều chỉnh chính sách chiết khấu dường như chúng ta chỉ
nặng về điều chỉnh lãi suất chiết khấu mà chưa chú ý đến “cửa sổ chiết khấu”
của NHTW đối với các NHTM (vì quy mô cung ứng cho vay chiết khấu của
NHNN đối với các NHTM cũng phải căn cứ vào thực lực của chính các NH
đó).
Mặt khác việc áp dụng lãi suất chiết khấu nhiều khi còn mang nặng tính
bao cấp ( ưu tiên NHTMQD) do vậy vai trò “người cho vay cuối cùng” đối
với mọi TCTD của NHNN chưa thực sự thể hiện rõ nét.

30
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Về cơ bản thì đây chưa thực sự trở
thành một công cụ điều tiết linh hoạt, chủ yếu của NHNN ở Việt Nam mặc dù
theo lý thuyết vai trò của nó là rất to lớn.
- Vấn đề nêu trên có thể biểu hiện ở các khía cạnh sau:
. Quá trình tạo “hàng hoá” còn chậm chạp, việc tổ chức đấu thầu tín
phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN của NHNN còn mang nặng tính
hành chính, các chủ thể tham gia không nhiều chủ yếu là các NHTM quốc
doanh, Công ty Bảo hiểm với mục đích đơn giản là giải quyết nguồn vốn khả
dụng dư thừa của họ.
. Việc mua bán lại tín phiếu còn chưa phổ biến đối với công chúng khiến
cho lượng tín phiếu mà các TCTD sau khi mua được hầu như lại nằm im
trong két của họ điều đó cũng làm giảm ý nghĩa và sự sôi động của thị trường
sơ cấp.
.Trên thị trường mở ,khối lượng giao dịch còn thấp , số thành viên tham
gia chưa nhiều nên tác độngcủa thị trường mở đến lượng vốn khả dụng của
các NHTM còn rất hạn chế.
Như vậy,từ các tồn tại trên đòi hỏi phải có những định hướng cơ bản và
các giải pháp cụ thể để có thể sử dụng các công cụ của CSTT một cách có
hiệu quả ở Việt Nam.

31
Chương 3

định hướng và giảI pháp hoàn thiện


các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam

3.1. Định hướng


3.1.1.Bối cảnh trong nước và quốc tế
Bước sang thế kỷ 21,đất nước chúng ta có những điều kiện thuận lợi để
phát triển đó là : sự ổn định về chính trị-xã hội,sự phát huy các lợi thế so sánh
của đất nước phục vụ cho sự phát triển .Tuy vậy nền kinh tế của chúng ta từ
khi đổi mới đến nay sau những năm phát triển liên tục,cao thì lại đang có xu
hướng chững lại, tình hình giảm phát đã thể hiện rõ điều này.Lý do được giải
thích có thể là do hậu quả thiên tai ,lũ lụt đã liên tiếp xảy ra hoặc xuất phát từ
chính các yếu tố,lĩnh vực của sản xuất đang bộc lộ rõ sự yếu kém tụt hậu
tương đối so với khu vực và thế giới .
Quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế của chúng ta đã tiến triển rất tốt
đẹp tạo cơ hội để phát triển đất nước ;chúng ta đã có quan hệ với rất nhiều các
quốc gia trong khu vực và thế giới ,tham gia nhiều hiệp ước kinh tế như
AFTA,WTO đặc biệt có nhiều quan hệ tốt đẹp với các tổ chức,định chế tài
chính lớn như IMF,WB,ADB..
Mặt khác ,nền kinh tế thế giới và khu vực Đông á,Đông Nam á đang có
dấu hiệu phục hồi sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ những năm
qua.Đây là một trong những nhân tố quan trọng góp phần ổn định thị trường
tàI chính tiền tệ ở nước ta .
Trong xu hướng tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ thì việc nâng cao
hiệu quả các công cụ của CSTT cho phù hợp điều kiện thực tiễn VN là vấn đề
còn phải lưu tâm rất nhiều .

32
3.1.2. Một số định hướng cơ bản:
-Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hoà nhập với
thông lệ quốc tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng định
hướng của Đảng và Nhà nước .
-Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bước một chuyển đổi từ việc sử
dụng các công cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu
quả hơn.
-Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính
thực tiễn đó là thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác để đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh
tế .
3.2.Giải pháp :
3.2.1.Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trường thuận lợi
-Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó
trong một chỉnh thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT
cần được độc lập với chính sách tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong hệ
thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
-Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng
cố và phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt
khác là cơ chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các công cụ của
CSTT.
-Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện,cơ cấu lại hệ
thống NH để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động .
-Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong việc
thu thập ,xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT
-Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng ,tài chính để
cơ chế thực thi CSTT nói chung ,các công cụ của CSTT nói riêng được
nghiêm minh và có hiệu quả hơn.

33
-Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp thói
quen mới trong tâm lý của các cá nhân ,các doanh nghiệp để giúp việc thực
hiện các công cụ của CSTT có hiệu quả hơn ,ví dụ: tạo thói quen thanh toán
qua ngân hàng của các tổ chức kinh doanh ,thói quen sử dụng hoạt động thị
trường mở của các tổ chức tín dụng ...
3.2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách
tiền tệ .
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh
nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát
thực tiễn VN -phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới CSTT.Hệ thống các
công cụ phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng hỗ trợ ,phối hợp thúc
đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau .Cụ thể:
*Đối với công cụ hạn mức tín dụng:
NHTN tuy không coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng
cần phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và
NHNN sẽ can thiệp vào hoạt động này trong điều kiện cụ thể.
*Đối với công cụ lãi suất :
Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên tắc
đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền,tổ chức tín dụng và người vay tiền, tạo
điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .
Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù
hợp các tổ chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân
của các doanh nghiệp;sự biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu tư; mức độ
lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị trường .
NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền
vay dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn
dài hạn đầu tư cho nền kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính
đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất ngắn hạn trong từng thời kỳ .
Việc duy trì các mức lãI suất ưu đãi cho các đối tượng dân cư gặp điều
khó khăn là phù hợp ; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách và các

34
kênh tài trợ hoạt động này đặt ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM
quốc doanh.
Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách
hợp lý ,từng bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá” trên
đất Việt Nam .
Trước mắt, trong những tháng đầu năm 2001 nền kinh tế đang có những
biểu hiện thiếu vốn, trong khi đó việc huy động và cung ứng vốn của các
TCTD đang gặp phải một số khó khăn; có ý kiến cho rằng việc NHNN điều
chỉnh lãi suất cơ bản với biên độ như hiện nay là còn rộng, từ đó làm nảy sinh
những hiện tượng thiếu tích cực trong cạnh tranh giữa các NHTM. Do vậy,
NHNN có thể nên điều chỉnh giảm biên độ dao động của mức lãi suất cơ bản.
Về phía Nhà nước nên có chính sách tài chính phù hợp với các tổ chức tín
dụng, các NHTM ở Việt Nam đang phải chịu một tỷ lệ thuế vốn khá cao, do
vậy thuế đánh vào các tổ chức tín dụng cần được điều chỉnh lại cho phù hợp
theo hướng giảm tỷ lệ thuế hoặc tính thuế trên lợi nhuận trước thuế
Hiện nay chúng ta chưa thể tiến hành tự do hoá lãi suất tuy vậy cần phải
hướng theo mục tiêu đó và thực hiện từng bước bởi một lẽ đó là xu hướng tất
yếu và khi đó vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước bằng công cụ lãi suất vẫn
được thể hiện qua sự định hướng theo tín hiệu thị trường .
* Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :
-Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động và
cung ứng tín dụng cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng ,do vậy trong cơ
chế thị trường thì NHNN cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp
để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh,bình đẳng giữa các tổ chức tín
dụng: nên mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc,tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đưa ra phải phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ ,với mục tiêu CSTT
và đặc điểm cụ thể của các tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín
dụng ở Việt Nam
- Cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự
trữ bắt buộc, đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm qui chế

35
dự trữ để đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính ,ngân hàng thực hiện
tốt mục tiêu CSTT
-NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các
qui chế dự trữ như:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc phù
hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng với
mức lãi suất phù hợp với khả năng tài chính NHNN.
-Trong thời gian trước mắt ,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,tỷ lệ dự trữ
bắt buộc cần phải giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các
NHTM thúc đẩy quá trình huy động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế
.
-Trong tương lai, khi thị trường tiền tệ ,thị trường vốn đã phát triển, các
công cụ khác có thể phát huy tác dụng một cách một cách mạnh mẽ thì ngân
hàng Nhà nước nên có dự kiến giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM
để họ được linh động, mạnh dạn hơn trong hoạt động kinh doanh của mình .
* Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu:
-Thương phiếu, hối phiếu chính là sự ghi nhận của các quan hệ tín dụng
thương mại trong nền kinh tế thị trường ,ở nước ta hiện nay các hình thức tín
dụng thương mại đã xuất hiện,doanh số hoạt động mua bán chịu có thời hạn
,giao nhận hàng thanh toán gối đầu giữa các doanh nghiệp là rất lớn .Do vậy
cần thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các thương phiếu trong các quan hệ tín
dụng thương mại. Muốn vậy nó cần phải có một cơ sở pháp lý đảm bảo ,trước
mắt đó là việc xúc tiến các hoạt động để đưa pháp lệnh thương phiếu (hiệu lực
từ 1/7/2000) đi vào thực tiễn.
-NHNN nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự án
cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu vì điều này nó ảnh hưởng quan trọng tới
hiệu quả việc điều chỉnh mức cung tiền .
-Nên xoá bỏ tình trạng bao cấp trong thực hiện cho vay chiết khấu và
nên mở rộng đối tượng được vay chiết khấu để phát huy vai trò “người cho
vay cuối cùng” của NHNN và đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống
ngân hàng.

36
- Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng (qui mô,chất lượng) để
NHNN có cơ sở chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái
chiết khấu ,tạo ra tín hiệu tốt đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM
.Mặt khác ,cùng với xu hướng tự do hoá lãi suất thì vai trò của mức lãi suất
tái chiết khấu sẽ ngày càng tăng lên ,trở thành một công cụ gián tiếp điều tiết
lãi suất thị trường một cách hữu hiệu ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế
* Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Phải phát triển thị trường mở theo hướng đưa nó trở thành một công cụ
hữu hiệu ,linh hoạt nhất của CSTT ở Việt Nam.Muốn vậy cần phải:
-Theo dõi ,tính toán ,dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng ,diễn biến
lạm phát lãi suất ,đầu tư...để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào
thị trường mở như thế nào (mua bán tín phiếu) ,với lượng là bao nhiêu.
-NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tượng tham gia thị
trường mở và linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trường mở.
-Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở: làm đại
lý phát hành tín phiếu ,trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho
phép NHTM phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi...Muốn vậy NHNN phảI
nắm được ( quản lý) được các hoạt động này đồng thời tạo ra tính “thanh
khoản”, hấp dẫn cao của các công cụ trên thị trường mở.
-Có cơ chế thích hợp, để khuyến khích các tổ chức tín dụng coi nghiệp
vụ thị trường mở là một “thói quen” trong hoạt động của họ
-Để thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ
của các thị trường khác đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị
trường thứ cấp

37
Kết luận

Như vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất
quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam
nói riêng. Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn
tới sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể.
ở Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường
thì việc áp dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu
quả. Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới việc áp dụng các công cụ điều
tiết trực tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và
thúc đẩy trưởng kinh tế. Tuy vậy thời gian gần đây chúng đã bộc lộ rõ những
hạn chế khi nền kinh tế bước sang một giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó
các công cụ điều chỉnh gián tiếp mới được đưa vào sử dụng và chưa thực sự
phát huy hết, hoặc chưa thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn
với thực lực của nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng
trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định
hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ về
năng lực NHNN, hệ thống NHTM... và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.
Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở
Việt Nam phải được coi là cả một quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát
triển về sau.

38

Das könnte Ihnen auch gefallen