Sie sind auf Seite 1von 9

NỘI DUNG PHẢN BIỆN PHẦN II CHƯƠNG V

Bên cạnh nhiều thành tựu về lý luận, thì lý luận về phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những thành tựu to lớn của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh quốc tế hiện nay. Trong khi Trung
Quốc chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, thì Việt Nam
chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành
tựu này đã trải qua quá trình phát triển và được thực tiễn kiểm nghiệm, xác minh
là đúng đắn. Tại Đại hội lần thứ VII (năm 1991) mới chỉ xác định xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thuật ngữ xây dựng “nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” đã được Đảng sử dụng lần đầu
tại Đại hội lần thứ IX (năm 2001).

Ngay sau khi ra đời, chủ trương này đã thu hút nhiều cuộc hội thảo khoa
học, cuộc tranh luận khá gay gắt. Thậm chí có ý kiến cho rằng, kinh tế thị
trường và định hướng xã hội chủ nghĩa như nước và lửa, không thể dung hòa
được với nhau. Tuy nhiên, thực tiễn hơn 35 năm đổi mới đã bác bỏ một cách
đanh thép những tư biện vòng vo mang tính chất logic hình thức và chứng minh
chủ trương này là hoàn toàn đúng đắn, là sự phát hiện mới mang tính đột phá lý
luận đầy tính sáng tạo của Việt Nam. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới
trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Trong bài Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định: “Đưa ra quan niệm phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản
và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện
đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của thế giới”.

 CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ NỀN KINH TẾ THỊ


TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
Phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đó là kết quả của quá trình
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ
nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những quan
điểm, kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển KTTT của các nước trên thế giới vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam.

“Tuy nhiên, hiện nay nhiều quan điểm khác biệt, thậm chí là trái ngược,
xuyên tạc, gây cản trở đến quá trình thực hiện mô hình kinh tế này ở Việt Nam.
Do vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên
tạc về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng của cả
hệ thống chính trị, các cơ quan, đơn vị và cá nhân mỗi chúng ta”

Để phê phán, bác bỏ luận điệu cho rằng không thể có nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà các thế lực phản động, thù địch đang
rêu rao cần chỉ rõ: “Đây là luận điểm sai lầm”; đã đồng nhất KTTT với KTTT tư
bản chủ nghĩa và chỉ có một loại KTTT là KTTT tư bản chủ nghĩa.  

Nguồn gốc và bản chất của KTTT là kinh tế hàng hoá. Các phạm trù (giá
trị, giá cả, hàng hoá, tiền tệ), quy luật (giá trị, cạnh tranh, cung- cầu) của nền
kinh tế hàng hoá là các phạm trù, quy luật của KTTT. Các phạm trù, quy luật
này có trước chủ nghĩa tư bản, được chủ nghĩa tư bản sử dụng để phát triển
KTTT tư bản chủ nghĩa. KTTT tư bản chủ nghĩa thời kỳ đầu mới ra đời là
KTTT tự do cạnh tranh, chưa có hoặc rất ít sự can thiệp của nhà nước. Sự điều
tiết của thị trường - “bàn tay vô hình”, ngoài những mặt tích cực còn đưa đến
nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là khủng hoảng kinh tế chu kỳ, đòi hỏi phải có sự
quản lý của nhà nước - “bàn tay hữu hình” để hạn chế, khắc phục những khuyết
tật do điều tiết tự phát của cơ chế thị trường. Ngày nay, nền KTTT hiện đại của
các nước tư bản phát triển trên thế giới đều là nền KTTT có sự quản lý của nhà
nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay vô hình”, vừa có điều tiết bởi “bàn tay hữu
hình”. KTTT có sự quản lý của nhà nước ở các nước trên thế giới là không hoàn
toàn giống nhau mà có nhiều mô hình khác nhau, tuỳ thuộc vào mức độ can
thiệp và nội dung định hướng can thiệp của nhà nước.

KTTT là sản phẩm của văn minh nhân loại, không phải là sản phẩm
“riêng có” của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng KTTT làm cơ sở
cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình. Đến nay đã xuất hiện nhiều mô
hình KTTT ở các nước tư bản phát triển, như: KTTT tự do ở Mỹ, KTTT xã hội
ở Đức, KTTT nhà nước phúc lợi ở Thuỵ Điển, KTTT phối hợp ở Nhật Bản…
Các mô hình KTTT này ở những mức độ khác nhau, dù được thừa nhận hay
không thừa nhận đều có các nhân tố khách quan XHCN. Đây là xu hướng tiến
bộ, là những mầm mống của CNXH ngay trong lòng các nước tư bản phát triển.

“Việt Nam đi lên CNXH từ một nước kinh tế chưa phát triển, bỏ quan
chế độ tư bản chủ nghĩa nên việc phát triển KTTT định hướng XHCN là rất cần
thiết, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, khai thác mọi tiềm năng, sử dụng có
hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển, từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho
CNXH. KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Mô hình này là một kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân theo những quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi
phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”

Cùng với việc bác bỏ luận điểm “không thể có nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”, Sẽ là sai lầm khi cho rằng các quy luật của KTTT
và định hướng XHCN hoàn toàn đối lập nhau, loại trừ nhau. “Nền KTTT phải
vận hành theo các quy luật của KTTT như quy luật cạnh tranh, giá trị cung-
cầu…, trong đó quy luật giá trị là trung tâm. Đặc trưng của KTTT là cạnh tranh,
các chủ thể kinh tế luôn cạnh tranh với nhau để chiếm các nguồn lực sản xuất,
dự án đầu tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cạnh tranh là sức ép, động lực thúc
đẩy các chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, hợp lí hoá tổ chức sản xuất; ứng
dụng tiến bộ khoa học- công nghệ, tăng năng suất lao động; đổi mới, nâng cao
chất lượng sản phẩm; tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh; qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển, thanh lọc các chủ thể kinh
tế yếu kém. Mặt tiêu cực của cạnh tranh không lành mạnh là làm hàng giả, trốn
thuế, chuyển giá, gây ô nhiễm môi trường, ăn cắp công nghệ…. Trong nền
KTTT có sự quản lý của nhà nước, nhất là ở các nước phát triển hiện nay, nhà
nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ, thúc đẩy, tôn trọng cạnh
tranh lành mạnh; ngăn ngừa, hạn chế độc quyền cản trở cạnh tranh và chống lại
các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh; điều tiết và giải quyết các thất bại
của thị trường”

“Quy luật giá trị là quy luật trung tâm, cơ bản của KTTT. Giá trị hàng
hoá là lao động xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hoá. Chi phí để sản xuất
hàng hoá xét đến cùng là chi phí lao động, bao gồm lao động sống (lao động của
người trực tiếp sản xuất ra hàng hoá) và lao động quá khứ (lao động chi phí để
sản xuất ra các tư liệu sản xuất được sử dụng để sản xuất ra hàng hoá này).
Lượng giá trị là hao phí lao động xã hội cần thiết (hao phí lao động ở mức trung
bình của xã hội, năng suất lao động trung bình, cường độ lao động trung bình,
được hình thành do cạnh tranh). Giá trị biểu hiện ra bên ngoài thành giá cả, giá
cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá trị là hình thái của cải trong nền KTTT,
là mục tiêu, là yếu tố chi phối mọi hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá
trong nền KTTT”

“Tác động tích cực của quy luật giá trị là thúc đẩy chủ thể kinh tế năng
động, sáng tạo, không ngừng hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý, đổi mới công
nghệ…. Tác động tiêu cực như khủng hoảng chu kỳ, phân hoá xã hội, cạn kiệt
tài nguyên, ô nhiễm môi trường… Trong nền KTTT có sự quản lý của nhà nước,
Nhà nước vận dụng quy luật giá trị thông qua việc tạo khung khổ pháp luật,
chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và điều kiện thuận lợi cho quy luật
giá trị vận động để phát huy mặt tích cực, đồng thời hạn chế, khắc phục những
tác động tiêu cực”.
Sự điều tiết của quy luật cung - cầu được thể hiện khi cung lớn hơn cầu,
giá cả hàng hoá sẽ giảm xuống; khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ tăng
lên. Sự tăng lên hay giảm xuống của giá cả hàng hoá là tín hiệu của thị trường
để các chủ thể kinh tế chuyển hàng hoá từ nơi giá thấp đến nơi giá cao, từ nơi
thừa đến nơi thiếu, để các nhà sản xuất thu hẹp hay dừng sản xuất các hàng hoá
thừa khi cung lớn hơn cầu, tăng cường, mở rộng sản xuất các hoàng hoá thiếu
khi cung nhỏ hơn cầu. “Đó chính là sự điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá
linh hoạt, nhanh nhạy của cơ chế thị trường, là mặt tích cực của quy luật cung-
cầu. Tuy nhiên, trong nền KTTT những người sản xuất và lưu thông hàng hoá
đều chạy theo lợi nhuận tối đa, luôn muốn đè ép đối thủ nên dẫn đến sản xuất
thừa, khủng hoảng chu kỳ, tác động tiêu cực đến nền kinh tế, gây bất ổn xã hội.
Đây là mặt trái của quy luật cung- cầu và cơ chế tự điều tiết của thị trường. Nền
KTTT có sự điều tiết của nhà nước, sự can thiệp của nhà nước là để khắc phục
những khiếm khuyết này, khắc phục những mất cân đối lớn, khủng hoảng chu
kỳ do tự điều tiết của cơ chế thị trường gây ra”

Nói về vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước trong nền KTTT, Các nền
KTTT hiện đại trên thế giới hiện nay đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường
và vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước. Nhà nước vừa bảo đảm, tôn trọng, tạo
môi trường hoạt động cho các quy luật KTTT; vừa hạn chế, khắc phục những
tác động tiêu cực, tự phát do các quy luật KTTT gây ra; giữ môi trường ổn định
cho phát triển kinh tế và hướng sự phát triển kinh tế vào các mục tiêu xã hội,
bảo đảm công bằng xã hội, quan tâm đến an sinh xã hội.

Dù nhà nước tư bản có sự điều chỉnh, điều tiết đến đâu thì bản chất của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn là phục vụ cho thiểu số lợi ích của giai cấp tư
sản, không phải vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động; và khi nó còn tồn tại
dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thì
những mâu thuẫn đối kháng của xã hội tư bản chủ nghĩa do khuyết tật của nền
KTTT tạo ra không những không mất đi mà ngày càng gia tăng và thêm gay gắt.
“Từ thực tiễn quá trình đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam về cơ bản đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực
quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản
xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ
thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày
càng đồng bộ...; vai trò của nhà nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như
quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng
nguồn lực kinh tế của nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết
tật của cơ chế thị trường,...”

Trong điều kiện đó, các quy luật của KTTT vận hành đồng bộ, các chủ
thể kinh tế cạnh tranh để tồn tại và phát triển; giá cả hàng hóa cơ bản do thị
trường quyết định; sản xuất và lưu thông hàng hóa phải chú ý đến tín hiệu giá
cả, quan hệ cung – cầu trên thị trường; thị trường đóng vai trò trực tiếp điều tiết
sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế, huy
động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất,... Các yếu tố bảo đảm định hướng
XHCN của nền KTTT gắn với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định
xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
môi trường, phát triển nhanh và bền vững đất nước,....

“Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con


người chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con
người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội.
Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá
trị tiến bộ, nhân văn chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì
lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển
bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho
các thế hệ hiện tại và tương lai chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài
nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”-

Nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo không mâu thuẫn, đối lập, không cản trở
hoạt động của các quy luật KTTT mà tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, hạn
chế, khắc phục mặt tiêu cực của các quy luật, để nền kinh tế phát triển nhanh,
bền vững, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công băng, văn
minh”. “Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân chứ không phải chỉ cho
một thiểu số giàu có".

“Những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của CNXH
và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và
nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi. Vì vậy, chắc chắn
rằng, các quy luật của KTTT và định hướng XHCN hoàn toàn không đối lập
nhau, không loại trừ nhau trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam”

Do yêu cầu của thực tiễn: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
hướng tới trình độ phát triển cao, hiện đại, phát huy ưu thế của cơ chế thị
trường, đồng thời khắc phục những hạn chế của CNTB. Trong khi điều kiện
thực tiễn của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Vì thế, cần hoàn thiện Thể chế kinh
tế thị trường định hướng XHCN.

Do sự dịch chuyển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: Việt Nam dịch chuyển
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, hội nhập kinh tế quốc tế

=> Từ đó đòi hỏi sự hoàn thiện về kiến trúc thượng tầng, tức là phải nâng
cao năng lực quản lý của Nhà nước thông qua thể chế. Như vậy cần phải hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Do xu thế phát huy vai trò của xã hội trong xây dựng thể chế: Các Tổ
chức chính trị - xã hội và Tổ chức xã hội - nghề nghiệp đang phát triển mạnh
mẽ. Đó là sự đại diện cho các thành phần xã hội, có vai trò phản biện xã hội,
theo tinh thần dân chủ và xây dựng

=> Vì thế, cần tiếp tục hoàn thiện Thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN.

 Phản bác các quan điểm sai trái về kinh tế thị trường định hướng XHCN

Các thế lực thù địch, phản động tăng cường công kích, xuyên tạc,
phủ nhận các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng qua các Đại hội với
các luận điệu sau: 1) Xuyên tạc, bác bỏ định hướng XHCN của Việt Nam.
Những nhóm này cho rằng phát triển KTTT thì không thể xây dựng CNXH, chủ
trương gắn KTTT với định hướng XHCN là không có cơ sở, bởi chúng đối lập
nhau như nước với lửa, không thể dung hòa. 2) Nhiều luận điệu phê phán quá
trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế diễn ra không thực
chất, chưa đạt nhiều kết quả, chỉ mang tính hình thức, cơ cấu kinh tế nước ta
đang tỏ ra lạc hậu so với các nước khác. 3) Phủ nhận những nỗ lực thực hiện
PTBV, xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ môi trường của đất nước, ra sức lôi kéo các
cộng đồng dân tộc thiểu số, các nhóm dễ bị tổn thương để phản đối, kích động
biểu tình, ngăn cản các chính sách PTBV của Đảng và Nhà nước ta. 4) Tranh thủ
những ý kiến nghi ngại về khả năng thích ứng của Việt Nam trong bối cảnh nền
kinh tế nước đang hội nhập quốc tế sâu rộng để tìm cách chống phá, cản trở
những nỗ lực hội nhập phục vụ phát triển mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Những quan điểm, luận điểm này bộc lộ dã tâm, mưu đồ xuyên tạc, phủ nhận
đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng. Những lý lẽ đưa ra có thể
thấy là những quan điểm, lập luận hết sức phiến diện và phi khoa học, không có
cơ sở cả về lý luận và thực tiễn, chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong phân tích,
đánh giá. 
Để đấu tranh với các thế lực sai trái, thù địch, tất cả mỗi người Việt Nam
phải kiên định lập trường, nắm vững đường lối, chính sách của Đảng Nhà nước
nói chung và tư tưởng phát triển kinh tế nói riêng; rèn luyện bản lĩnh chính trị,
đạo đức, chuyên môn, tầm nhìn để chủ động tranh luận, đấu tranh với các quan
điểm sai lầm của các đối tượng. Cần phân biệt rõ các đối tượng chính để có giải
pháp, hình thức phù hợp
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Quân đội nhân
dân, số ra ngày 17/5/2021
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.128, 129, 129 -
130 và 130

Das könnte Ihnen auch gefallen